Thứ Ba, 3 tháng 3, 2020

Phân tích bài thơ Ánh trăng


phân tích bài thơ Ánh trăng

Chiến tranh đã qua đi, con người bắt đầu sống hòa nhập và xây dựng cuộc sống mới. Có thể nói bấy nhiêu năm chiến tranh đi qua đã đủ để nhìn nhận và đánh giá trọn vẹn sự thiêng liêng của hai tiếng “hòa bình”. Thế nhưng ở cuộc sống yên bình thì vẫn diễn ra những cuộc chiến âm thầm nhưng không kém phần khốc liệt bên trong mỗi con người. Cuộc chiến không có súng đạn, không có máu đỏ ấy nhưng lại trải dài trải dài… Đó là cuộc chiến của con người để loại bỏ đi phần xấu phần “con” tiềm ẩn để vươn đến cái đẹp, vươn đến chân thiện mĩ trong cuộc sống. Và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một minh chứng rõ nét nhất cho cuộc chiến khốc liệt ấy trong nội tâm sâu thẳm của mỗi con người. Ánh trăng có nội dung rất sâu sắc.
Nguyễn Duy sáng tác thơ từ rất sớm. Thơ ông luôn có sự kết hợp hài hòa nhuần nhị giữa chất trữ tình và chất thế sự, có phần ngang tàng nhưng vẫn nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm. Thơ Nguyễn Duy có chút dung dị, hồn nhiên và trong sáng; ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ sáng tạo, gợi cảm và rất đẹp, một vẻ đẹp chân quê. Cảm xúc trữ tình trong thơ Nguyễn Duy ít nhiều pha màu sắc triết lí khá thâm trầm và đầy ấn tượng.
Bài thơ Ánh trăng mang đậm dấu ấn thơ Nguyễn Duy, được in trong tập thơ cùng tên và được sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, mang bóng dáng của một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện đại, nhưng quá khứ ấy được hồi cố lại trong cái nhìn của hiện tại. Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng theo mạch tự sự mà bộc lộ.
Hình ảnh ánh trăng trong bài thơ vừa là hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Ánh trăng đối với Nguyễn Duy không chỉ là ánh trăng tuyệt đẹp của thiên nhiên mà đó còn là ánh trăng của tình nghĩa, ánh trăng của sự thức tỉnh. “Ánh trăng” là lời ca ngợi vầng trăng tri kỉ của tuổi thơ, của người lính một thời trận mạc, đồng thời cũng gợi nhắc mọi người cần biết sống ân nghĩa thủy chung cũng như giữ trọn những đạo lí tốt đẹp.
Nguyễn Bùi Vợi đã từng nhận định về tác phẩm “Bài thơ nói về ánh trăng mà nói chuyện đời, chuyện tình nghĩa”. Với ý nghĩa sâu sắc và nhân văn, tác phẩm đã mượn đề tài thiên nhiên để nói tới suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời.
Nguyễn Duy đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh của ánh trăng trong ký ức tuổi thơ cũng như sự gắn bó sẻ chia cùng con người khi chiến tranh.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Hình ảnh vầng trăng dường như được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ chỉ vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả đầy đủ sự vận động, quá trình trưởng thành của con người. Vầng trăng ở những dòng thơ này đã đại diện cho thiên nhiên hồn nhiên tươi sáng, là người bạn tri kỷ từ tuổi nhỏ cho đến “hồi chiến tranh ở rừng”. Trong giây phút thoáng qua, sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm sống dậy biết bao nhiêu kí ức của tuổi thơ. Đó là những kí ức về những năm tháng gian lao, nhưng hồn nhiên, hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị và hiền hậu. Kí ức tuổi thơ của tác giả đẹp như một câu truyện cổ tích cùng bao kỉ niệm ngọt ngào. Ở đó, trăng là người bạn, trăng là tri kỉ, trăng nghĩa tình gắn bó với con người không bao giờ quên.
Những bước chân cứ lớn dần theo bước chân của đồng, sông, bể. Nhân vật trữ tình cũng thế mà lớn dần. Thời gian cũng cứ thế mà trôi đi. Rồi đến “hồi chiến tranh”, nhân vật trữ tình đi lính sống và chiến đấu chủ yếu ở núi, rừng. Giữa không gian ấy, tác giả không cô đơn, không cảm thấy lạnh lẽo bởi có sự xuất hiện của ánh trăng. Dù ở bất kì thời gian nào, bất kì không gian nào, vầng trăng cũng gắn bó cùng con người. Hình tượng này như tô điểm thêm cho vẻ đẹp của thiên nhiên, dịu dàng đi vào tâm hồn nhà thơ. Ánh trăng xuất hiện trong những đêm đứng gác:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”  (Đồng chí – Chính Hữu)
Nhưng đêm trung thu trăng rằm phá cỗ:
“Mùa thu của em
Rước đèn họp bạn
Hội rằm tháng tám
Chị Hằng xuống xem.” (Mùa thi của em – Quang Huy)
Hay những đêm trăng thơ mộng của tình yêu
“Đêm qua trăng sáng làu làu
Anh đi múc nước để hầu tưới cây
Tình cờ bắt gặp em đây
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần.” (Ca dao)
Quê hương của ký ức tuổi thơ ấy tuy khó khăn thiếu thốn đủ điều nhưng vẫn bừng lên tình nghĩa với vầng trăng. Sự gắn bó ấy đã được đắp xây qua bao thời gian.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ “trần trụi” cho ta cảm giác giữa vầng trăng và con người dường như không có bất cứ rào cản nào. Con người và thiên nhiên như đã hòa làm một. Con người trong những năm tháng ấy sống vô tư vô lo. Điều đó được thể hiện rõ nét qua cách so sánh “hồn nhiên như cây cỏ”. Lúc ấy tác giả ngỡ như “không bao giờ quên” được nghĩa tình sâu nặng ấy. Không đơn thuần nói về quá khứ về kỷ niệm nghĩa tình mà còn ẩn chứa trong đó thái độ nghiêm túc xem xét pha lẫn nỗi ân hận day dứt trong lòng. Có biết bao nhiêu cảm xúc trong từ “ngỡ” ấy. Đó cũng là một điểm nhấn, một dấu hiệu đặc biệt. Nó gợi cho ta biết bao suy nghĩ về những điều chưa nói. Từ “ngỡ” như một lối rẽ đưa ý thơ theo hướng khác. Hóa ra tất cả mọi thứ chỉ còn trong ký ức, đang trôi dần trong quá khứ xa xăm.
Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại cũng như bao người lính khác, nhân vật trữ tình cũng trở về cuộc sống thường nhật của mình. Nhưng không phải là về với sông với bể với vầng trăng nghĩa tình mà là trở về với thành phố tấp nập đông vui:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Ánh điện, cửa gương” nơi thành phố phồn hoa đã vô tình làm cho vầng trăng tình nghĩa năm nào bỗng trở thành kẻ xa lạ. Hình ảnh nhân hóa độc đáo trong khổ thơ gợi cho người đọc suy nghĩ. Vì sao “vầng trăng đi qua ngõ” nhưng không ghé vào thăm người bạn xưa? Chính vầng trăng cũng muốn ghé vào thăm, nhưng người bạn năm nào giờ đây đã thay đổi, lạnh lùng, hững hờ nên vầng trăng chỉ đành “như người dưng qua đường”. Ánh trăng bị lu mờ bởi ánh đèn chiếu rọi. Mới ngày nào gắn bó giờ đây chỉ còn là “người dưng” không chút quen biết, không chút nhớ nhung dường như chưa từng bên cạnh nhau. Nguyễn Duy đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng trong quá khứ và vầng trăng của hiện tại. Phải chăng cuộc sống hiện nghi hiện tại đã và đang làm cho tâm hồn mỗi chúng ta trở nên lạnh lùng hơn, đang dập tắt dần ngọn lửa tình nghĩa trong trái tim mỗi con người, đang biến những người bạn thủy chung năm xưa – trong đó có ta, trở thành kẻ vong ơn bội nghĩa.
Cuộc sống đầy những biến cố ngẫu nhiên, bất trắc. Và trong những biến cố bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ càng thêm sáng tỏ và soi rõ nỗi lòng con người.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Thành phố bất ngờ mất điện. Không gian căn phòng chìm dần trong bóng tối bủa vây. Và chính lúc đó, vầng trăng tròn lung linh dịu dàng hiện ra. Cùng với ánh trăng là những kỷ niệm ngày xưa chợt ùa về đầy ắp trong tâm trí. Các từ “thình lình”, “bất ngờ”, “vội” cho thấy được sự ngỡ ngàng đầy bàng hoàng của một cuộc tri ngộ không ngờ đến. Không chỉ là sự thay thế cho ánh sáng đèn điện mà ánh trăng còn là sự thức tỉnh và gợi nhớ quá khứ đã qua. Nhà thơ đang bồi hồi khi nhớ về quá khứ, nhớ lại quãng thời gian êm đềm được sống chan hòa giữa thiên nhiên bình dị, được gắn bó gần gũi hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên, được chung nhịp thở với đồng, bể, sông, rừng. Hành động “vội bật tung cửa sổ” chứa đựng sự âu lo, thảng thốt. Vầng trăng tròn đâu phải chỉ vì đèn điện tắt.  Hình tượng này cũng như những năm tháng ấy không hề mất đi chỉ có con người mãi chìm đắm trong ánh sáng đèn điện hôm nay mà lãng quên đi người bạn cố tri. Chính vì vậy “đột ngột vầng trăng tròn” như một biến có một khám phá đầy bất ngờ – một bất ngờ quen thuộc đầy chua chát. Trong khổ thơ này, đó là một chuỗi cái biến cố hành động nối tiếp nhau. Nhưng nhờ những biến cố ấy, nhân vật trữ tình có cơ hội gác lại cuộc sống hiện tại để nhìn nhận lại quá khứ và để thức tỉnh.
Miền ký ức xa xăm hiện về ngày càng rõ nét trong tâm trí nhà thơ.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Đó là một cái nhìn đầy áy náy xót xa “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Con người đang đối diện cùng trăng, mặt đối mặt. Đối diện với mặt trăng hiền từ, nhân hậu của quá khứ nhưng tất cả chỉ lặng im. Mặt trăng im lặng nhìn con người thay đổi, nhìn con người trong giây phút tỉnh ngộ. Con người im lặng vì bất ngờ, vì xúc động và cũng bởi xấu hổ trước ánh trăng. Đây là một sự ngạc nhiên pha lẫn nỗi nghẹn ngào xúc động. Một cuộc hồi sinh từ kỷ niệm quá khứ êm đềm thơ mộng xen lẫn một nỗi dày vò, ray rứt của lương tâm trong thời khắc hiện tại. Mọi cảm xúc ấy được gói gọn trong hai từ “rưng rưng”. Đó là khi con tim quặn thắt, cảm xúc dâng cao trực trào nước mắt vì xót xa, vì ân hận. Vầng trăng như đã kéo nhà thơ trở về với những phút giây đầy cảm xúc của quá khứ. Thì ra ranh giới giữa nhớ và quên thật mong manh. Những cảm xúc ấy dường như vẫn còn đó, chìm sâu vào tiềm thức của con người chỉ cần một sự gợi nhắc là sẽ được đánh thức và trở về nguyên vẹn. Phải chăng con người khi gạt ngoài những tiện nghi vật chất thì mới để ý đến tình nghĩa năm xưa. Tất cả như những đợt sóng tâm trạng đang đổ dồn về phía nhà thơ.
Tác phẩm này đã kết thúc bằng một lời độc thoại nội tâm.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Cho dù con người có vô tình nhưng trăng vẫn thế, vẫn “cứ tròn vành vạnh”. “Cứ tròn” nghĩa là đã tròn, vẫn tròn và đang tròn. “Tròn vành vạnh” thể hiện trạng thái tươi đẹp nhất của vầng trăng. Vượt qua thời gian đằng đẵng không gian mênh mông, vượt qua tất cả sự nhớ quên của con người, vầng trăng năm xưa không hề hao gầy vơi khuyết mà vẫn cứ tròn vẹn nghĩa tình. Nguyễn Duy như muốn nhắc đến một triết lý sâu xa: Quá khứ mãi mãi vẫn ở đó vẫn vẹn nguyên tươi đẹp. Con người có thể lãng quên tất cả nhưng quá khứ vẫn luôn như vậy, ở đó dõi theo con người. Dù con người có thể quên đi quá khứ – nhưng không thể xóa đi quá khứ cùng biết bao hồi ức tháng năm… Quá khứ lặng yên không lên tiếng kết án con người. Nhưng chính sự im lặng, chính cái “im phăng phắc” đó của vầng trăng lại là lời nhắc nhở nghiêm khắc nhất “đủ cho ta giật mình”. Cái giật mình ấy không phải ngẫu nhiên. Sự giật mình đôi khi làm người ta sợ hãi nhưng cũng có những cái giật mình khiến con người thức tỉnh. Cái giật mình làm sống dậy bao kỷ niệm để con người tự vấn lương tâm. Không có bất kỳ tòa án nào xét xử sự bội bạc của con người chỉ có duy nhất toà án của lương tâm. Chính vì vậy, cái giật mình ấy là cái giật mình sâu thẳm của lương tâm con người. Tuy muộn màng nhưng điều đó rất đáng quý, giúp con người thanh lọc tâm hồn. Ý nghĩa triết lý sâu sắc của bài thơ nằm ở lời nhắc về thái độ của con người đối với những năm tháng quá khứ gian lao tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đối với đất nước bình dị.
Bài thơ Ánh trăng đã được Nguyễn Duy viết vào năm 1978 khi đất nước đã thoát khỏi đạn bom, con người sống trong cảnh hòa bình yên ổn. Nhà thơ đứng giữa hôm nay và suy ngẫm về một thời đã qua. Tiếng thơ của ông cũng là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh đối với chúng ta. Thực tế đã chứng minh, không phải ai trong chúng ta trong cuộc sống yên vui hôm nay còn nhớ về quá khứ gian nan nhưng anh dũng, về những nghĩa tình của một thời tưởng không bao giờ quên. Như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng day dứt “Đôi khi sống trong ánh nắng chan hòa, người ta dễ quên đi cơn mộng dữ đêm qua”.
Bài thơ Ánh trăng đã không chỉ là những chiêm nghiệm sâu sắc về thái độ và tình cảm của con người đối với những hi sinh mất mát đã qua của thời chiến tranh, mà còn khơi gợi tình cảm con người về cội nguồn, về những người đã khuất. Nhà thơ Nguyễn Duy khai thác tinh tế hình tượng nghệ thuật ánh trăng một cách độc đáo. Ánh trăng đã mang đến câu chuyện về lẽ sống ân tình và thủy chung. Tác phẩm đã gợi lên trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm về cách sống và cách làm người, cũng như là lối sống ân tình ở đời chỉ qua những câu thơ thấm thía, sâu nặng. “Ánh trăng” chính vì thế nằm trong mạch cảm xúc “uống nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lý sống ân tình đầy nhân đạo. Đó cũng là một nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc góp phần hình thành truyền thống tốt đẹp của mỗi con người Việt Nam.

Nguồn: ST &