phân tích bài thơ Ánh trăng
Chiến tranh đã qua đi, con người bắt đầu sống
hòa nhập và xây dựng cuộc sống mới. Có thể nói bấy nhiêu năm chiến tranh đi qua
đã đủ để nhìn nhận và đánh giá trọn vẹn sự thiêng liêng của hai tiếng “hòa
bình”. Thế nhưng ở cuộc sống yên bình thì vẫn diễn ra những cuộc chiến âm thầm
nhưng không kém phần khốc liệt bên trong mỗi con người. Cuộc chiến không có
súng đạn, không có máu đỏ ấy nhưng lại trải dài trải dài… Đó là cuộc chiến của
con người để loại bỏ đi phần xấu phần “con” tiềm ẩn để vươn đến cái đẹp, vươn đến
chân thiện mĩ trong cuộc sống. Và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một minh chứng
rõ nét nhất cho cuộc chiến khốc liệt ấy trong nội tâm sâu thẳm của mỗi con người.
Ánh trăng có nội dung rất sâu sắc.
Nguyễn Duy sáng tác thơ từ rất sớm. Thơ ông
luôn có sự kết hợp hài hòa nhuần nhị giữa chất trữ tình và chất thế sự, có phần
ngang tàng nhưng vẫn nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm. Thơ Nguyễn Duy có chút dung dị,
hồn nhiên và trong sáng; ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ sáng tạo, gợi cảm và rất
đẹp, một vẻ đẹp chân quê. Cảm xúc trữ tình trong thơ Nguyễn Duy ít nhiều pha
màu sắc triết lí khá thâm trầm và đầy ấn tượng.
Bài thơ Ánh trăng mang đậm dấu ấn thơ Nguyễn
Duy, được in trong tập thơ cùng tên và được sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ
Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, mang bóng dáng của một câu
chuyện được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện đại, nhưng quá khứ ấy
được hồi cố lại trong cái nhìn của hiện tại. Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ
cũng theo mạch tự sự mà bộc lộ.
Hình ảnh ánh trăng trong bài thơ vừa là hình ảnh
cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Ánh trăng đối với Nguyễn Duy không chỉ là
ánh trăng tuyệt đẹp của thiên nhiên mà đó còn là ánh trăng của tình nghĩa, ánh
trăng của sự thức tỉnh. “Ánh trăng” là lời ca ngợi vầng trăng tri kỉ của tuổi
thơ, của người lính một thời trận mạc, đồng thời cũng gợi nhắc mọi người cần biết
sống ân nghĩa thủy chung cũng như giữ trọn những đạo lí tốt đẹp.
Nguyễn Bùi Vợi đã từng nhận định về tác phẩm “Bài
thơ nói về ánh trăng mà nói chuyện đời, chuyện tình nghĩa”. Với ý nghĩa sâu
sắc và nhân văn, tác phẩm đã mượn đề tài thiên nhiên để nói tới suy ngẫm, chiêm
nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời.
Nguyễn Duy đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh của
ánh trăng trong ký ức tuổi thơ cũng như sự gắn bó sẻ chia cùng con người khi
chiến tranh.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Hình ảnh vầng trăng dường như được trải rộng
ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ chỉ vỏn
vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả đầy đủ sự vận động, quá trình trưởng
thành của con người. Vầng trăng ở những dòng thơ này đã đại diện cho thiên
nhiên hồn nhiên tươi sáng, là người bạn tri kỷ từ tuổi nhỏ cho đến “hồi chiến
tranh ở rừng”. Trong giây phút thoáng qua, sự xuất hiện đột ngột của vầng
trăng làm sống dậy biết bao nhiêu kí ức của tuổi thơ. Đó là những kí ức về những
năm tháng gian lao, nhưng hồn nhiên, hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị
và hiền hậu. Kí ức tuổi thơ của tác giả đẹp như một câu truyện cổ tích cùng bao
kỉ niệm ngọt ngào. Ở đó, trăng là người bạn, trăng là tri kỉ, trăng nghĩa tình
gắn bó với con người không bao giờ quên.
Những bước chân cứ lớn dần theo bước chân của
đồng, sông, bể. Nhân vật trữ tình cũng thế mà lớn dần. Thời gian cũng cứ thế mà
trôi đi. Rồi đến “hồi chiến tranh”, nhân vật trữ tình đi lính sống và
chiến đấu chủ yếu ở núi, rừng. Giữa không gian ấy, tác giả không cô đơn, không
cảm thấy lạnh lẽo bởi có sự xuất hiện của ánh trăng. Dù ở bất kì thời gian nào,
bất kì không gian nào, vầng trăng cũng gắn bó cùng con người. Hình tượng này
như tô điểm thêm cho vẻ đẹp của thiên nhiên, dịu dàng đi vào tâm hồn nhà thơ.
Ánh trăng xuất hiện trong những đêm đứng gác:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.” (Đồng
chí – Chính Hữu)
Nhưng đêm trung thu trăng rằm phá cỗ:
“Mùa thu của em
Rước đèn họp bạn
Hội rằm tháng tám
Chị Hằng xuống xem.” (Mùa thi của em – Quang Huy)
Hay những đêm trăng thơ mộng của tình yêu
“Đêm qua trăng sáng làu làu
Anh đi múc nước để hầu tưới cây
Tình cờ bắt gặp em đây
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần.” (Ca dao)
Quê hương của ký ức tuổi thơ ấy tuy khó khăn
thiếu thốn đủ điều nhưng vẫn bừng lên tình nghĩa với vầng trăng. Sự gắn bó ấy
đã được đắp xây qua bao thời gian.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ “trần trụi” cho ta cảm giác giữa vầng
trăng và con người dường như không có bất cứ rào cản nào. Con người và thiên
nhiên như đã hòa làm một. Con người trong những năm tháng ấy sống vô tư vô lo.
Điều đó được thể hiện rõ nét qua cách so sánh “hồn nhiên như cây cỏ”.
Lúc ấy tác giả ngỡ như “không bao giờ quên” được nghĩa tình sâu nặng ấy.
Không đơn thuần nói về quá khứ về kỷ niệm nghĩa tình mà còn ẩn chứa trong đó
thái độ nghiêm túc xem xét pha lẫn nỗi ân hận day dứt trong lòng. Có biết bao
nhiêu cảm xúc trong từ “ngỡ” ấy. Đó cũng là một điểm nhấn, một dấu hiệu
đặc biệt. Nó gợi cho ta biết bao suy nghĩ về những điều chưa nói. Từ “ngỡ”
như một lối rẽ đưa ý thơ theo hướng khác. Hóa ra tất cả mọi thứ chỉ còn trong
ký ức, đang trôi dần trong quá khứ xa xăm.
Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại cũng như
bao người lính khác, nhân vật trữ tình cũng trở về cuộc sống thường nhật của
mình. Nhưng không phải là về với sông với bể với vầng trăng nghĩa tình mà là trở
về với thành phố tấp nập đông vui:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Ánh điện, cửa gương” nơi thành phố phồn hoa đã vô tình làm cho vầng
trăng tình nghĩa năm nào bỗng trở thành kẻ xa lạ. Hình ảnh nhân hóa độc đáo
trong khổ thơ gợi cho người đọc suy nghĩ. Vì sao “vầng trăng đi qua ngõ”
nhưng không ghé vào thăm người bạn xưa? Chính vầng trăng cũng muốn ghé vào
thăm, nhưng người bạn năm nào giờ đây đã thay đổi, lạnh lùng, hững hờ nên vầng
trăng chỉ đành “như người dưng qua đường”. Ánh trăng bị lu mờ bởi ánh
đèn chiếu rọi. Mới ngày nào gắn bó giờ đây chỉ còn là “người dưng” không chút quen
biết, không chút nhớ nhung dường như chưa từng bên cạnh nhau. Nguyễn Duy đã tạo
ra sự đối lập giữa vầng trăng trong quá khứ và vầng trăng của hiện tại. Phải
chăng cuộc sống hiện nghi hiện tại đã và đang làm cho tâm hồn mỗi chúng ta trở
nên lạnh lùng hơn, đang dập tắt dần ngọn lửa tình nghĩa trong trái tim mỗi con
người, đang biến những người bạn thủy chung năm xưa – trong đó có ta, trở thành
kẻ vong ơn bội nghĩa.
Cuộc sống đầy những biến cố ngẫu nhiên, bất trắc.
Và trong những biến cố bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ càng thêm sáng tỏ và
soi rõ nỗi lòng con người.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Thành phố bất ngờ mất điện. Không gian căn
phòng chìm dần trong bóng tối bủa vây. Và chính lúc đó, vầng trăng tròn lung
linh dịu dàng hiện ra. Cùng với ánh trăng là những kỷ niệm ngày xưa chợt ùa về
đầy ắp trong tâm trí. Các từ “thình lình”, “bất ngờ”, “vội” cho thấy được
sự ngỡ ngàng đầy bàng hoàng của một cuộc tri ngộ không ngờ đến. Không chỉ là sự
thay thế cho ánh sáng đèn điện mà ánh trăng còn là sự thức tỉnh và gợi nhớ quá
khứ đã qua. Nhà thơ đang bồi hồi khi nhớ về quá khứ, nhớ lại quãng thời gian êm
đềm được sống chan hòa giữa thiên nhiên bình dị, được gắn bó gần gũi hòa nhập
vào khung cảnh thiên nhiên, được chung nhịp thở với đồng, bể, sông, rừng. Hành
động “vội bật tung cửa sổ” chứa đựng sự âu lo, thảng thốt. Vầng trăng
tròn đâu phải chỉ vì đèn điện tắt. Hình
tượng này cũng như những năm tháng ấy không hề mất đi chỉ có con người mãi chìm
đắm trong ánh sáng đèn điện hôm nay mà lãng quên đi người bạn cố tri. Chính vì
vậy “đột ngột vầng trăng tròn” như một biến có một khám phá đầy bất ngờ
– một bất ngờ quen thuộc đầy chua chát. Trong khổ thơ này, đó là một chuỗi cái
biến cố hành động nối tiếp nhau. Nhưng nhờ những biến cố ấy, nhân vật trữ tình
có cơ hội gác lại cuộc sống hiện tại để nhìn nhận lại quá khứ và để thức tỉnh.
Miền ký ức xa xăm hiện về ngày càng rõ nét
trong tâm trí nhà thơ.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Đó là một cái nhìn đầy áy náy xót xa “ngửa
mặt lên nhìn mặt”. Con người đang đối diện cùng trăng, mặt đối mặt. Đối diện
với mặt trăng hiền từ, nhân hậu của quá khứ nhưng tất cả chỉ lặng im. Mặt trăng
im lặng nhìn con người thay đổi, nhìn con người trong giây phút tỉnh ngộ. Con
người im lặng vì bất ngờ, vì xúc động và cũng bởi xấu hổ trước ánh trăng. Đây
là một sự ngạc nhiên pha lẫn nỗi nghẹn ngào xúc động. Một cuộc hồi sinh từ kỷ
niệm quá khứ êm đềm thơ mộng xen lẫn một nỗi dày vò, ray rứt của lương tâm
trong thời khắc hiện tại. Mọi cảm xúc ấy được gói gọn trong hai từ “rưng
rưng”. Đó là khi con tim quặn thắt, cảm xúc dâng cao trực trào nước mắt vì
xót xa, vì ân hận. Vầng trăng như đã kéo nhà thơ trở về với những phút giây đầy
cảm xúc của quá khứ. Thì ra ranh giới giữa nhớ và quên thật mong manh. Những cảm
xúc ấy dường như vẫn còn đó, chìm sâu vào tiềm thức của con người chỉ cần một sự
gợi nhắc là sẽ được đánh thức và trở về nguyên vẹn. Phải chăng con người khi gạt
ngoài những tiện nghi vật chất thì mới để ý đến tình nghĩa năm xưa. Tất cả như
những đợt sóng tâm trạng đang đổ dồn về phía nhà thơ.
Tác phẩm này đã kết thúc bằng một lời độc thoại
nội tâm.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Cho dù con người có vô tình nhưng trăng vẫn thế,
vẫn “cứ tròn vành vạnh”. “Cứ tròn” nghĩa là đã tròn, vẫn tròn và đang
tròn. “Tròn vành vạnh” thể hiện trạng thái tươi đẹp nhất của vầng trăng.
Vượt qua thời gian đằng đẵng không gian mênh mông, vượt qua tất cả sự nhớ quên
của con người, vầng trăng năm xưa không hề hao gầy vơi khuyết mà vẫn cứ tròn vẹn
nghĩa tình. Nguyễn Duy như muốn nhắc đến một triết lý sâu xa: Quá khứ mãi mãi vẫn
ở đó vẫn vẹn nguyên tươi đẹp. Con người có thể lãng quên tất cả nhưng quá khứ vẫn
luôn như vậy, ở đó dõi theo con người. Dù con người có thể quên đi quá khứ –
nhưng không thể xóa đi quá khứ cùng biết bao hồi ức tháng năm… Quá khứ lặng yên
không lên tiếng kết án con người. Nhưng chính sự im lặng, chính cái “im
phăng phắc” đó của vầng trăng lại là lời nhắc nhở nghiêm khắc nhất “đủ
cho ta giật mình”. Cái giật mình ấy không phải ngẫu nhiên. Sự giật mình đôi
khi làm người ta sợ hãi nhưng cũng có những cái giật mình khiến con người thức
tỉnh. Cái giật mình làm sống dậy bao kỷ niệm để con người tự vấn lương tâm.
Không có bất kỳ tòa án nào xét xử sự bội bạc của con người chỉ có duy nhất toà
án của lương tâm. Chính vì vậy, cái giật mình ấy là cái giật mình sâu thẳm của
lương tâm con người. Tuy muộn màng nhưng điều đó rất đáng quý, giúp con người
thanh lọc tâm hồn. Ý nghĩa triết lý sâu sắc của bài thơ nằm ở lời nhắc về thái
độ của con người đối với những năm tháng quá khứ gian lao tình nghĩa, đối với
thiên nhiên, đối với đất nước bình dị.
Bài thơ Ánh trăng đã được Nguyễn Duy viết vào
năm 1978 khi đất nước đã thoát khỏi đạn bom, con người sống trong cảnh hòa bình
yên ổn. Nhà thơ đứng giữa hôm nay và suy ngẫm về một thời đã qua. Tiếng thơ của
ông cũng là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh đối với chúng ta. Thực tế đã chứng minh,
không phải ai trong chúng ta trong cuộc sống yên vui hôm nay còn nhớ về quá khứ
gian nan nhưng anh dũng, về những nghĩa tình của một thời tưởng không bao giờ
quên. Như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng day dứt “Đôi khi sống trong ánh nắng
chan hòa, người ta dễ quên đi cơn mộng dữ đêm qua”.
Bài thơ Ánh trăng đã không chỉ là những chiêm
nghiệm sâu sắc về thái độ và tình cảm của con người đối với những hi sinh mất
mát đã qua của thời chiến tranh, mà còn khơi gợi tình cảm con người về cội nguồn,
về những người đã khuất. Nhà thơ Nguyễn Duy khai thác tinh tế hình tượng nghệ
thuật ánh trăng một cách độc đáo. Ánh trăng đã mang đến câu chuyện về lẽ sống
ân tình và thủy chung. Tác phẩm đã gợi lên trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm về
cách sống và cách làm người, cũng như là lối sống ân tình ở đời chỉ qua những
câu thơ thấm thía, sâu nặng. “Ánh trăng” chính vì thế nằm trong mạch cảm xúc “uống
nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lý sống ân tình đầy nhân đạo. Đó cũng là một nét đẹp
trong bản sắc văn hóa dân tộc góp phần hình thành truyền thống tốt đẹp của mỗi
con người Việt Nam.