Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về
ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ.
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc
phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của
Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ
lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này. Bức tranh ngày
xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chin chục đã ngoài sáu
mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận
trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm
nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người,
với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ
này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình. Tác giả sử dụng chất liệu
ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc
thiên nhiên khi xuân về. Đó là một bức tranh mùa xuân xinh đẹp, thanh khiết như
một cô thiếu nữ tuổi vừa chớm nở đang e ấp trong nắng gió của cuộc đời.
Phong cảnh thiên nhiên với những nét
đặc sắc của mùa xuân cùng bút pháp cổ điển cảnh thiên nhiên gợi lên theo trình
tự thời gian, bút pháp chấm phá ước lệ. Tác giả thể hiện cảm nhận về sự chảy trôi
của thời gian cũng như sự nuối tiếc khi những khoảnh khắc tươi đẹp trôi qua
nhanh chóng:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chin chục đã ngoài sáu
mươi.
Một không gian đầy chất thơ, thi vị
và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn
tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cảnh ngày xuân được hiện lên với
hình ảnh con én đưa thoi. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi
lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi
lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của
thời gian. Chúng ta thường nói nhanh như thoi, vậy ở câu thơ này én bay như
thoi hay ngày xuân trôi đi cũng như thoi đưa, cũng nhanh như vậy. Sau cánh én "đưa
thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi
"chín chục đã ngoài sáu mươi". Mùa xuân đã bước sang tháng ba rồi. Thời
gian ấy làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa
xuân. “Thiều quang” là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang
như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống
cho muôn loài. Ba tháng mùa xuân thì giờ đây đã trôi đi hai tháng, chín chục
ngày xuân giờ đã qua hơn sáu mươi ngày. Như vậy thời gian của ngày xuân không
còn là bao! Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với
Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông
chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng
nhiên ngắn lại. Nhưng chính cái cách đếm thời gian ấy, người đọc hiểu rằng có một
sự ngầm nuối tiếc ở đây.
Vậy, cảnh ngày xuân có gì mà nhà thơ
lại nuối tiếc. Chúng ta phải đọc những câu thơ tiếp theo để biết cảnh xuân
trong thơ Nguyễn Du độc đáo ra sao:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên
nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt
điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Hai dòng thơ
như vẽ ra trước mắt người đọc một bức hoạ bằng ngôn từ về cảnh sắc mùa xuân
tươi đẹp, tràn đầy sức sống, vẫn là sắc xanh làm nền cho bức tranh xuân, nhưng
không phải là sắc xanh của sông xuân, trời xuân mà là sắc xanh của “cỏ non”.Tính
từ “non” thật giàu sức gợi, nó không chỉ gợi ra màu sắc mà còn gợi lên cả
sức sống của cỏ đang ở độ non tơ nhất. “Cỏ non” là tín hiệu của mùa
xuân, của sức xuân đang căng tràn. Câu thơ với những vần bằng êm ả gợi hình ảnh
cỏ xuân như đang kết dệt thành một tấm thảm xanh mềm mại trải dài mênh mang vô
tận khắp không gian, cỏ ở mặt đất. cỏ ở chân trời xa… Chỉ với một nét phác độc
đáo của thi nhân, “cỏ non” đã lan toả nhuộm xanh cả lời thơ. Và trên nền
xanh ấy, thi hào tiếp tục điểm xuyết thêm màu trắng tinh khiết của những đoá
hoa lê nở lác đác đang toả hương thơm ngát. Đại thi hào đã vận dụng sáng tạo những
vần thơ cổ Trung Hoa: Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa. Vẫn
là cỏ, là trời, là cành lê nhưng dưới nét bút bậc thầy của Nguyễn Du với hai chữ
“trắng điểm” – nhãn tự của câu thơ đầy độc đáo, tinh tế, giàu chất tạo
hình, đã gợi lên được cả một vẻ đẹp thanh tao, trang nhã, tinh khôi của thiên
nhiên hoa cỏ. Sáng tạo độc đáo của thi nhân khiến cho bức tranh xuân trở nên
sinh động, trẻ trung, tràn đầy sức sống, tươi non, xanh tươi như vừa mới bắt đầu,
như còn e ấp, nhưng đã ẩn dâu đó sự trào dâng mãnh liệt lan xa tới tận chân trời.
Bức tranh được miêu tả ở trạng thái tĩnh nhưng dường như vẫn đang có sự vận động
rất tinh tế. Đọc câu thơ, ta như say bởi cảnh sắc mùa xuân đẹp quá, trong trẻo
quá… Bằng nghệ thuật phối màu, dựng cảnh tinh tế, nghệ thuật sử dụng ngôn từ
điêu luyện, chỉ với hai cảu thơ, đại thi hào đã phác họa nên một bức tranh xuân
thơ mộng với đủ màu sắc, đường nét, hình khối. Ẩn sau những nét vẽ ấy dường
như là nhịp đập thổn thức của trái tim người nghệ sĩ yêu thiên nhiên đang lắng
nghe những bước đi uyển chuyển của Nàng Xuân…
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ
nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất
và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn
ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Đoạn thơ là một bức họa về mùa xuân
tuyệt đẹp được vẽ bằng lời, thể hiện được tài năng tả cảnh đặc sắc của đại thi
hào dân tộc Nguyễn Du. Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì
vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ
điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn rang, náo nức và có chút
buồn phiền được Nguyễn Du khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như
sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.