Khi
nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân thường thổ lộ rằng ông muốn thể
hiện con người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trường hợp như Kim Lân, sự tự thể
hiện thành ra một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm
của ông. Những gì nhà văn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan
trọng của lịch sử đất nước trở thành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng
tạo nên những hình tượng đặc sắc. Truyện ngắn Làng, với nhân vật ông
Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từng nói:
"Cái
không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đưa vào Làng. Lúc ấy Tây
còn đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là
"làng chiến đấu". Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán
nghi về làng chợ Dầu theo Tây làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này.
Ông lão Hai chính là tôi".
Tình
yêu quê hương đất nước trong mỗi con người cụ thể mang một hình hài riêng.
Có thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công
sức khai hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái mượt mà hay hùng
tráng của một ca khúc ca ngợi tình người, tình đời, v.v... Và ở đây là tình
yêu, sự gắn bó thuỷ chung với cái làng của mình, của một người nông dân phải
rời làng đi tản cư trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thành
công của truyện Làng chính là ở hình tượng nhân vật lão Hai với những trạng
huống tâm lí, ngôn ngữ được khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy
nhiên, để nhân vật bộc lộ được tâm lí hay ngôn ngữ, trước hết, nhà văn phải
xây dựng được tình huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ được thể hiện trong
một sự việc cụ thể nào đó. Hiểu lầm
rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thường
được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tản cư là sự việc có ý nghĩa tạo
khung cho câu chuyện. Đó chưa phải là tình huống. Phải đến khi ông Hai nghe
tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự bắt đầu.
Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết được sự thực làng của ông không
theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê
của mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm
lí, ngôn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hoá.
Sở
dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến
điều thiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con người ông. Cái làng đối với người
nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này
qua đời khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là
nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước
Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị
"bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết
nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm
bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán". Nên
ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như
đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ.
Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước
Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông:
"Chết! Chết, tôi cha thấy cái dinh cơ nào mà lại đợc như cái dinh cơ cụ
thượng làng tôi". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng
đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta
không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được
nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng
ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái
chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe làng ông khởi
nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối",
rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của
làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời
làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm,
sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm
lầm". ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc
cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...]
Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông
chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ
Dầu của ông đánh Tây. Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng chợ Dầu
của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao
nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim
Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động
trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng
và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Ông
lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những
tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã
làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.
Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở đợc. Một lúc lâu ông mới rặn è è,
nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm
mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị
mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật
xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó
cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi
đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành
hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi
đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy.
Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống
Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm:
"Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn
trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ
nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không
ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề.
Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là
"chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước
chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã
đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo
Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình
cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống! [...] đâu đâu có người
chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người
ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".
Từ
chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì
cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ
Hồ...". Và "Nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống
nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày
cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con
là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ
Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả
lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào
lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- à, thầy hỏi con nhé. Thế con
ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và
rành rọt:
- ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nớc mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên
hai má. Ông nói thủ thỉ:
- ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con
nhỉ.
Những
lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh
dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với
kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho
ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng
ông:
Anh em đồng chí biết cho bố con
ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi
cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế
đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
Nhà
văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm
tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích
nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí
vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những
diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi
nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm
trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là
tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng
tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần
nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài
tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm
bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi:
"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó
đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất.
Toàn là sai sự mục đích cả!".
Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong
niềm vui vì thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian". Cái tin ấy
xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông
lại được sống như môt người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang
đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc
sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người
đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt
khác, cũng như các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu
theo giặc, bà chủ nhà,)... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá
rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn
nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ:
"Nắng này là bỏ mẹ chúng nó","không đọc thành tiếng cho người
khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dám đơn
sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc
quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở
thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu
hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc
điểm ngôn ngữ này.
Kim
Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong
truyện Làng, sự thông hiểu về lề
thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng
tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả
vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức
hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông
dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước,
thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích
khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục,
đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi
biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân,
nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.