Trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du, đoạn nói về tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc
xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình.
Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối
cùng, ở bốn bức tranh:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Tám câu thơ trên tuy là tả cảnh
nhưng thực sự là Nguyễn Du đang tả tình. Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu
bằng hai tiếng buồn trông nghĩa là nỗi buồn đã sẵn ở trong lòng trước khi nhìn
vào cảnh và ngắm cảnh ấy cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm
càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lí, thật đúng với tâm
trạng Thúy Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn,
không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo
đẳng suốt cả đời người. Quả thật, trong suốt phần đầu của Truyện Kiều, chưa bao
giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện
buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải
bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của
cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng
vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con, một
người chị cả, phải rời xa gia đình cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì
không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến
Lâm Tri, bước vào nhà mụtú bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài vó câu
khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh Kiều đã hoảng hồn vì quang cảnh nhà mụ, Kiều đã gặp
ngay một trận tam bành của con mụ buôn thịt người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau,
đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.
Bây giờ mới thực sự buồn.
Ta hình dung một mình Kiều ngồi trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước
khách của mụ tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui
nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía. Nàng buồn vì
nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bồi tha thiết mà nay thì vĩnh viễn
cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày mỗi già yếu mà không có
nàng để hôm sớm đỡ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi, mênh mông, giờ đã đọng
thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu, nỗi buồn còn từ cảnh một dội vào lòng
thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếng buồn trông, Nguyễn
Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy!
Kiều trông gì?
Đây là bức tranh thứ nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Trông về cửa bể mà lại
trong buổi chiều hôm, lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng
thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một dải
bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài một trống vắng,
mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại thấp
thoáng hiện lên một cánh buồm xa xa. Thuyền ai là chỉ có một chiếc thuyền lẻ loi,
bơ vơ như sắp mất hút tận chân trời. Nhìn con thuyền thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện
trên mặt biển bao la như có như không khiến cuộn trào trong tâm khảm Kiều một nỗi
cô đơn, lạc lõng. Thuyền đang đi về nơi đâu? Có về quê nhà xa lắc của ta chăng ?
Hay thuyền cũng đang đi về nơi vô định, cũng lưu lạc giang hồ như ta? Tâm sự này
đã buồn, trông vào cảnh ấy sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn?
Như để tìm một chút lãng
quên, Kiều ngoảnh mặt đi giấu nỗi đau cứ cuộn trong lòng, nhưng cảm giác ấy làm
sao quên đi được bởi khi muốn quên lại càng buồn thêm.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trước mắt Kiều là một ngọn
nước từ trên thác cao đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi khỏi đầu ngọn thác,
ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt
đầu của dập vùi, cuộc xoáy, sôi trào, xô đập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay
cái phút từ trên mỏm đá cao sà xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến
chân ngọn nước thì hoa trôi man mác. Giá nhà thơ viết tan tác thì cũng đành đi
một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi những cánh hoa mỏng manh kia. Nhưng
không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa đi đẩy lại, rồi lại
trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được.
Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy có khác chi cuộc đời Kiều. Chính Kiều
cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn
xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đóa hoa đang man mác trôi đi, đơn độc và mỏng
manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe dọa chưa thểnào hình
dung hết.
Lòng đã buồn, cảnh lại buồn
quá. Dường như đúng là người buồn cảnh có vui đâu bao giờ:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Lại một cảnh mênh mông
hoang vắng, một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng
cây, không một dòng sông, không một gò núi, không một mái nhà để phá bớt cái
đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì cũng có tươi tốt gì
đâu! Từ dầu dầu không chỉ gợi nên ý rầu rầu buồn bã, mà còn cho ta hình dung thấy
những ngọn cỏ lưa thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất dần sức sống. Đây
không phải đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi dự hội thanh minh:
Cỏ non xanh rợn chân trời…
Đây là đồng cỏ cuối mùa,
cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh. Thế mà cái đồng cỏ ấy, cái
màu ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành một màu duy nhất:
xanh xanh. Nếu Nguyễn Du viết:
Chân mây mặt đất một màu xanh tươi
Thì hẳn nàng Kiều đã tìm được
ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng xanh xanh thì chưa hẳn là xanh,
chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm gợi nên một niềm ngao
ngán. Và có lẽ cái màu xanh xanh ấy là cái màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt
ướt đẫm khổ đau.
Thế là Thúy Kiều đã ngoảnh
nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng, may ra có chút đổi thay
hay chăng ?
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Hóa ra cái buồn của ba cảnh
trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cảnh trên buồn đến thế còn là nhẹ quá.
Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chỉ là những bước chuẩn bị cho cảnh
buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn.
Gió biển hun hút chạy vào duyềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn,
trắng xóa một màu. Sóng vỗ ầm ầm chứ không phải ì ầm như những ngày ít gió,
sóng gào thét cuồng mộ, đập vào bờ, xô đập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào
lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm
trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều tưởng mình không còn ngồi trên
lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đâu chính giữa duyềnh biển mênh mông ấy, bốn bên
nàng là sóng vỗ. Mấy từ ầm ầm tiếng sóng nghe dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào
thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.
Nếu trong ba bức tranh
trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt đâu là chủ, đâu
là khách thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh, ngoại cảnh
trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức tột đỉnh của cao trào. Lúc
này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẵn sàng làm bất cứ việc liều
lĩnh nào để thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm đó, hoặc có thể chết đi cũng không cần.
Chính tâm trạng này cũng đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh
theo y rồi bị lừa gạt.
Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không
lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng của Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự
hòa hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn
cảnh, rất sâu sắc về tình người, nhưng còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài
tình trong ngôn ngữ.