Nhà văn Nguyễn
Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. N¨m 1945, «ng tập kết ra Bắc
vµ b¾t ®Çu viết văn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim; đề
tài chính; cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ. “ChiÕc
lîc ngµ” viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lµ
truyÖn ng¾n xuÊt s¾c viÕt vÒ t×nh cha con vµ nçi ®au chiÕn tranh do qu©n giÆc
gieo r¾c thêi chèng MÜ th«ng qua nh©n vËt «ng S¸u vµ bÐ Thu.
Truyện đã thể
hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống. Tình huống
thứ nhất, hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé
Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông
Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản thể hiện sâu sắc tình cảm của bé Thu
dành cho người cha thân yêu. Tình huống thứ hai, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất
cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con,
nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này bộc
lộ sâu sắc tình cảm của người cha đối với con.
Tình yêu của
bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau nhiều năm xa
cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu
nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại
tỏ ra ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ
ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng
loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động. Khi mới
gặp ông Sáu, cô bé hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên. Những
ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu chỉ gọi trống không với ông mà không chịu gọi cha,
nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi. Bữa cơm, Thu liền hất
cái trứng cá mà cha nó gắp cho. Cuối cùng, khi bị ông Sáu tức giận đánh cho một
cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua cái dây cột xuồng kêu
rổn rảng thật to.
Sự ương ngạnh
ấy của cô bé hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của
chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để coa thể hiểu được nhưĩng tình thế khắc nghiệt,
éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó những khả năng
bất thường, nên nó không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo,
khác với hình ba mà nó được biết. Phản ứng
tâm lí của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ,
tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là
ba.Trong cái cứng đầu của em có chứa
cả sự kiêu hãnh rtẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác
– người trong tấm hình chụp với má em.
Nhưng trong
buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của
bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba mà tiếng
kêu như tiếng xé, rồi nó vừa kêu vừa chạy
xô tới, nhan như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ
ba nó, nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn
tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa, hai tay nó siết
chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân
rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Sở dĩ có sự
biến đổi đột ngột như vậy trong thái độ và hành động của bé Thu là vì trong đêm
bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt
ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải toả và ở cô bé nảy sinh một tạng thái như
là sự ân hận, hối tiếc: Khi nghe bà kể nó
nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong giờ
phút chia tay với cha, tình yêu và nối nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn
nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối
hận. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải
chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như
có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.
Đó là tình cảm
thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. ở Thu còn có nét cá
tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ
với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.
Qua những diễn
biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả tỏ ra rất am
hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những
tình cảm trẻ thơ.
Nhân vật chính thứ hai trong
tác phẩm là nhân vật ông Sáu. Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu
hiện phần nào ở tình huống thứ nhất, trong
chuyến về thăm nhà. Cũng như bao người khác ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê
hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách
càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi
nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng
trong lòng ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không
cho con bé lên cùng ?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc
dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng
cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng
đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng người cha nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu
ao ước gặp con.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở
thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông
Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha
con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí ông. Khi xuồng vừa
cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy
ông Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của ông cũng không ngờ tới
“giọng anh tập bập run run”, ông dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài
đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng ông nhưng không ngờ
bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Hành
động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà ông dồn nén bấy
lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong ông là nỗi đau khổ vô bờ.
Nỗi đau ấy còn dày vò ông trong suốt ba ngày ở
nhà. Ba ngày ở nhà ông Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với
con. Ông muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình
cảm cho con bé. Dường như ông muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn
đầy âu yếm, ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con
bé đối với ông. Người cha muốn ôm con và có lẽ chắc ông cũng mong đứa con gái
của mình có thể chạy sà vào lòng. Thế
nhưng không… những gì ông từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không
thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm
thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can ông,
nhưng ông vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng
Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín
rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này ông chỉ biết “nhìn
con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được,
nên anh phải cười vậy thôi.”
Dường như sự lạnh lùng và
bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết
nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc
của mình. Trong bữa cơm, cưng con, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó
hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và quát nó.
Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là
do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén
như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất
chứa trong lòng.
Song đến giây phút cuối cùng,
trước khi ông Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra
đi, chân ông ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con
nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên ông chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt
trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của ông, chất chứa bao yêu thương mà ông
muốn trao gởi tới con . “Thôi ba đi nghe con”. Cũng chính giây phút ấy, ông
nghe thấy từ con tiếng gọi “Ba…a….a…ba”.
Tiếng gọi bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng
ba mà ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về
bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra
còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ,
vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Hạnh phúc đến
với ông quá đột ngột khiến cổ ông nghẹn lại. Không kìm được xúc động, ông Sáu
đã khóc. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và
không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau
nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể
ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề
lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong
chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể
ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ
đợi , từng giây từng phút mong ông quay về.
Tình cảm của ông Sáu dành cho
bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở
tình huống thứ hai của câu chuyện, lúc ông Sáu ở rừng. Ông tự tay làm chiếc
lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong
ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối
với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ
thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha,
thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông bỗng loé lên một sáng
kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú
chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách
khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm -
chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và ông không muốn
mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình cha con
của mình.
Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn
hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính
là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi ông
“ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc
”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông thường
xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm
mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân
chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết
tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm
sao!
Nhưng ngày ấy đó vĩnh viễn khụng bao giờ đến nữa. ễng không
kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thỡ người cha ấy đó hi sinh trong
một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hỡnh như chỉ có tỡnh cha con là khụng thể
chết được”. Không cũn đủ sức trăn trối điều gỡ, tất cả tàn lực cuối cựng chỉ
cũn cho ụng làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn
chiến đấu thân thiết và cứ nhỡn bạn hồi lõu. Nhưng đó là điều trăn trối không
lời, nó rừ ràng là thiờng liờng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác,
là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tỡnh phụ tử! Bắt đầu
từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tỡnh phụ tử đó biến người đồng đội thành
một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
Câu chuyện về
chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng, mà còn gợi
cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến
tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
Truyện Chiếc lược ngà diễn tả một cách cảm động
tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của
chiến tranh. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng
liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ
khó khăn. Truyện thành công nổi bật ở nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ mà
tự nhiên, hợp lí, ở ngòi bút miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật, nhất là nhân
vật trẻ em.