TÁC PHẨM “RỪNG XÀ NU” – NGUYỄN TRUNG THÀNH
ĐỀ 1
Đề bài
|
Phân tích
hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
|
Mở bài
|
Nguyễn
Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng
chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh
thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về
đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang
sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên
bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu
(1965). Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật
Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể
nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng
chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.
|
Thân bài
HCST
|
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần
đầu trên tạp chí Văn nghệ quân giải
phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn
Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào
miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
|
Chủ đề
|
Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở
một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác
giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: để cho
sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác
hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn.
|
Phân tích
Giới thiệu chung
|
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Nhà văn lấy
nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ở Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề
đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt
đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Hình ảnh Tnú hiện lên qua lời kể của cụ Mết bên
sàn nhà ưng, bên bếp lửa bập bùng đầm ấm. Tnú là lứa cây xà nu lớn cường
tráng và bất diệt “hai cánh tay rộng
lớn như hai cánh lim vững chắc”. Tnú mang trong mình vẻ đẹp lý tưởng của
người anh hùng trong thời kháng chiến chống Mỹ.
|
Lai lịch Tnú
|
Tnú là con của dân làng Xô Man. Cuộc đời Tnú gắn
liền với cuộc đời làng Xô Man. Dân làng Xô Man đã nuôi dưỡng, đùm bọc anh,
cưu mang anh: “Nó là người Sa Trá mình,
cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch
như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho
anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng
quê hương, với những gì thân thuộc như: tiếng
chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già ,
những em nhỏ,… Sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi
hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
|
Tính cách Tnú
|
Tnú là người gan góc, táo bạo và quả cảm, sớm
giác ngộ cách mạng. Tính cách này được bộc lộ ngay từ nhỏ: anh
dám cùng Mai xung phong vào rừng đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, bảo vệ anh
Quyết. Bất chấp sự vây lùng, khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu anh Xút,
treo cổ bà Nhan, những người đi nuôi giấu cán bộ CM. Đây là việc làm
khó khăn, nguy hiểm nhưng Tnú và Mai làm rất tốt để dân làng mãi tự hào “năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc
bị giết ở trong rừng”.
Khi được anh Quyết dạy chữ, Tnú “đã đi
ba ngày đường đến núi Ngọc Linh mang đá trắng về làm phấn”. Ham ánh sáng văn hóa, Tnú cố học
chữ để sau này thay anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Học chữ thua Mai nó nổi nóng “đập bể bảng nứa...”, bỏ ra ngoài suối ngồi suốt ngày rồi
cầm hòn đá “đập vào đầu, chảy máu
ròng ròng’’. Hành động hơi nóng nảy nhưng bộc lộ ý chí và quyết tâm
sắt đá của người có chí khí: vì không học được chữ nên trừng phạt cho đau để
nhớ để cố gắng hơn.
Khi làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện, Tnú
cũng bộc lộ phẩm chất táo bạo và dũng
cảm, mạo hiểm hơn người: “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ
thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình”
bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó
không ngờ”. Giặc vây các ngả đường thì “Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh
một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây”. Học chữ thì
tối nhưng đi đường rừng thì sáng lạ lùng.
Chưa hết, sự bất khuất, kiên cường đã được thể hiện
qua lần bị giặc tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Lúc này, Tnú cường
tráng như một cây xà nu lớn, không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục
dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng.
Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng
súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú nhanh
trí “nuốt thư vào bụng’’và điềm tĩnh chỉ vào bụng trả lời câu hỏi của
kẻ thù “cộng sản đây này’’. Đây không phải là câu trả lời mà là sự
thách thức dũng cảm. Tnú quả là người hiện thân của sự trung thành, thủy chung tuyệt đối với CM.
Lại một thử
thách nữa đến với Tnú khi bọn giặc ở đồn Đắc Hà xuống làng Xô Man truy bắt
anh, khi biết anh củng dân làng mài vũ khí chuẩn bị đồng khởi. Không bắt được
Tnú, chúng bắt vợ con anh. Không thể cầm lòng trước sự tra tấn dã man Mai và
đứa con chưa tròn tháng tuổi, anh đã đối đầu với chúng. Lòng căm thù đã biến
“hai con mắt anh thành hai cục lửa…anh đã bứt đứt hàng chục trái vả lúc nào
mà không hay”. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú
không cứu được vợ con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân
của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Giặc
dùng giẻ tẩm dầu xà nu quấn vào mười đầu ngón tay và đốt: “Mười
ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc” thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh
“nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở
trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu
lưỡi, răng anh đã cắn nát môi anh rồi, nhưng Tnú nhất quyết không kêu van,
người cộng sản không kêu van, Tnú không kêu”. Hình ảnh mười đầu ngón
tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố
cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng.
Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương. Ngay cả gia đình nhỏ bé hạnh phúc
với người vợ dịu hiền và đứa con thơ, vậy mà cuối cùng gia đình nhỏ ấy bỗng
chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Cái đau đớn mang trên thân xác và bi
kịch gia đình của Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong
chiến tranh bị bọn Mị - Diệm tàn sát không thương xót.
|
Vượt lên bi kịch, gia nhập quan đội
|
Tnú còn là
biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí, là một người biết vượt lên đau
đớn và bi kịch cá nhân. Sau khi
được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng
mài, Tnú gia nhập lực lượng bộ đội. Anh đi lực lượng để chiến đấu chống lại
kẻ thù xâm lược, để trả thù nước, rửa thù nhà “giết được giặc ở bất cứ nơi
nào trên đất nước này cũng là giết được thằng Dục, kẻ thù của gia đình anh và
quê hương anh”. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử
động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn
soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man.
|
Hình ảnh đôi bàn tay Tnú
|
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc
biệt dụng công miêu tả đôi bàn
tay của anh. Khi
còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là
bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng
phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây…
Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của
truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một
chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối
tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn
tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn
địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả
trải dài theo suốt cả câu chuyện. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy
hiện lên không những cả dấu ấn cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật
Tnú.
|
Tính kỷ luật của Tnú
|
Chưa hết,
Tnú còn là người có tính kỷ luật cao.
Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người
thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là
Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi
của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể
để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô
Man.
|
Nhận xét chung
|
Có thể thấy, h/ượng
Tnú rất điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây
Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Bi kịch của Tnú khi
chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú chỉ được cứu
khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự
chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo
lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Con đường đấu tranh
của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng
của làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Tnú là hình
tượng một nhân vật lí tưởng, đau thương mà bất khuất, là người con vinh quang
của dân làng Xô Man được khắc họa bằng những đường nét giàu chất sử thi. Âm
hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Cũng như nhiều
nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, kết
tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên.
|
Kết bài
|
“Gấp trang
sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn
đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dt Tây Nguyên và
cũng mang những nét chung cho hình mẫu anh hùng dan tộc thấm đượm chất “sử
thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác, các anh
đã ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng). Đúng như lời thơ sau:
Người
hy sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời.
(Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng).
|
ĐỀ 2
Đề bài
|
Phân tích tính sử thi của truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
|
Mở bài
|
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây
Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu
biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên
có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có
công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết
về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Tác phẩm đã đáp ứng được những đặc điểm của nền văn học Việt Nam
1945 – 1975: tính chất sử thi của nền văn xuôi cách mạng Việt Nam. Đọc tác
phẩm, ta như nhìn thấy không khí của núi rừng Tây Nguyên hùng vỹ, âm vang
cồng chiêng của các dân tộc nơi đây và đặc biệt bắt gặp không khí hào hùng
của dân tộc trong những ngày kháng chiến chống Mỹ.
|
Thân bài
HCST
|
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần
đầu trên tạp chí Văn nghệ quân giải
phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn
Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào
miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
|
Khái niệm sử thi
|
Sử thi là những áng văn
tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn
dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những
người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc. Nền văn học
hiện nay không còn thể loại sử thi, nhưng tính chất sử thi vẫn được người cầm
bút mang vào các sáng tác và làm nên giá trị và sức sống cho từng trang viết,
làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng.
|
Giới thiệu chung
|
Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở tất cả các phương diện: Bức tranh thiên nhiên
hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện; Chủ đề mà tác phâm đặt ra
có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam qua cuộc đời đầy bi tráng của nhân
vật; Giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào hùng, ngân
vang.
|
PT Tính sử thi
Chủ đề
|
Trước hết ở chủ đề mà
tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam, những sự kiện có
tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man
hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên,
cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị
o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống
đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật
10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ.
Trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ có một con đường duy nhất
là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hươngKhi làng Xô Man đứng dậy
thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những
ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh
đón nhận những thử thách mới.
|
Tập thể anh hùng
|
Biểu hiện thứ hai của
tính sử thi trong “Rừng xà nu” là xây
dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được
kể đến trong tác phẩm đều có tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của
cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong “Rừng
xà nu” là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh
hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ
đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan
dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh
giặc đến cùng. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải
do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng
không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng: Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô
Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ
còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ
đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân
tộc. Đặc biệt là Tnú - cuộc
đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình; nhưng anh đã biến đau thương thành hành động, trở
thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước. Hình ảnh
hai bàn tay bị đốt của Tnú là hình ảnh nhiều ý nghĩa. Cuộc
đời Tnú là cuộc đời chung của biết bao người trong thời đại ấy. Người
anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp, đậm chất “sử thi”. Có thể nói, chất
anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của mọi người. Dân tộc VN dù có
hy sinh, dù có mất mác nhưng không bao giờ lùi bước trước kẻ thù:
Nước
VN từ trong biển máu
Người vươn lên
như một thiên thần.
(Tố Hữu).
|
Rừng xà nu hoành tráng,
dữ dội
|
Biểu hiện thứ ba của tính sử thi
ở truyện ngắn “Rừng xà nu” là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành
tráng làm bối cảnh cho câu chuyện. Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử
thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu.
Mở đầu và kết thúc tác phẩm vẫn là
rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy
đến chân trời”. Hiện lên trước mắt người đọc là rừng cây xà nu ngút
ngàn, hiên ngang trước nắng trước gió. Nguyễn Trung thành đã rất thành công
khi chọn cây xà nu- một loại cây mang đậm dấu ấn Tây Nguyên để làm nổi bật vẻ
đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, núi rừng Tây Nguyên. Nhà văn đã tạo
nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này bằng cách đưa người đọc đến một cảm giác
mới lạ về một hương vị dậy lên từ rừng núi, thiên nhiên chốn cao nguyên. Rừng
xà nu chịu nhiều đau thương mất mát nhưng xà nu vẫn vươn lên với sức sống mãnh liệt. Đó chính là bức tranh
thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến traanh nhân dân rộng lớn và hào hùng của
dân tộc ta. Cây xà nu, rừng xà nu là biểu tượng cho con người ở Tây Nguyên:
“Một cây ngả cả
rừng cây lại mọc
Người tiếp
người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nguyễn Trung Thành).
|
Nghệ thuật tác phẩm đậm
chất sử thi.
|
Tính sử thi của “Rừng xà nu” còn thể hiện ở giọng văn
tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô
Man. Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất
rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính
sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu
tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người
đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi,
tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực,
hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi
là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt.
Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Câu
truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối
tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu
vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm
chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người
Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
|
Nhận xét chung
|
Khuynh hướng sử thi như thế vừa
có cội nguồn từ khuynh hướng chung của hiện tượng văn học sau cách mạng, vừa
được tạo nên từ không khí sử thi của truyện ngắn của dân tộc sau những ngày
đánh Mĩ mà Nguyễn Trung Thành từng gắn bó chiến đấu sâu sắc với một chương sử
thi đậm đặc như thế truyện ngắn rừng xà nu xứng đáng được coi là một pho sử
thi của thời đại. Từ nội dung tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật đến các hiện
tượng, các phương diện hình thức nghệ thuật, truyện ngắn rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành đều đậm đặc một chất sử thi.
Nguyễn Trung Thành sử dụng đặc
biệt nhiều các phép chuyển nghĩa, các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng,
nhân hoá nhất là khi thể hiện hình tượng xà nu. Lời văn của tác phẩm rất giàu
hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp,
những hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết nhất là
lối cấu trúc vòng tròn với hình tượng xà nu trở đi trở lại ở đầu và cuối tác
phẩm. Cách sử dụng ngôn ngữ như thế cũng mang dấu ấn của thể loại sử thi cũng
đem lại cho tác phẩm nhiều chất sử thi.
|
Kết bài
|
Rừng
xà nu
là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được tác giả thể hiện sâu sắc trong tác phẩm. Niềm xúc động thiêng
liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử thách đã thôi thúc
Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô đọng
nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê.
Một tác phẩm xuất sắc rất xứng tầm với
thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng. Chính vì thế mà truyện ngắn này đậm đà
chất sử thi.
|
ĐỀ 3
Đề bài
|
Phân tích
hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
|
Mở bài
|
Nguyễn
Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng
chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh
thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về
đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang
sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên
bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu
(1965). Bên cạnh tập thể anh hùng, Nguyễn Trung Thành còn sáng tạo nên một
hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc và nhân
dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình tượng cây xà nu. Chính
hình tượng cây xà nu đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng đậm chất sử thi, lãng mạn
cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất kiên cường. Đọc tác phẩm này, người
đọc nhận ra hình tượng cây xà nu đã trở thành một hình tượng chủ đạo xuyên
suốt tác phẩm, gắn bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt của dân làng Xô
Man.
|
Thân bài
HCST
|
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần
đầu trên tạp chí Văn nghệ quân giải
phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn
Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào
miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
|
Chủ đề
|
Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở
một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác
giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: để cho
sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác
hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn.
|
Phân tích
Giới thiệu chung
|
Cây xà nu là hình tượng
nổi bật xuyên suốt trong tác phẩm. Mở
đầu và kết thúc tác phẩm đều là cảnh
rừng xà nu “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài
những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét
nhạc trầm hùng, là cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng
mang đậm tính sử thi. Ngoài ra, trong truyện ngắn “Rừng xà nu” gần 20 lần nhà văn nói đến cây xà nu ở nhiều góc độ
khác nhau: rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu,…
|
Ý 1
|
Cây xà nu
còn gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân làng Xô Man cả trong sinh hoạt
hằng ngày: “đuốc xà nu Tnú soi cho Dít dần gạo, khói xà nu xông bảng nứa cho Tnú
và Mai học chữ để sau này làm cán bộ”. Cây xà nu còn tham gia vào các sự
kiện trọng đại của buôn làng “giặc đốt hai bàn tay Tnú bẳng giẻ tẩm nhựa
xà nu, đuốc xà nu soi sáng xác của những tên giặc trong đêm đồng khởi”.
|
Ý 2
|
Cây xà nu
là loại cây đặc biệt sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng,
thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp”.
Cây xà nu ham ánh sáng mặt trời, cứng cáp và vươn mình lên như thế có nghĩa
là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng. Chính vì
vậy, nhà văn đã chọn một loại cây họ thông mọc nhiều ở Tây Nguyên, gỗ và nhựa
đều rất quý, rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng
cho khí phách anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi
rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất.
|
Ý 3
|
Rừng xà nu
chịu hủy diệt của đế quốc Mĩ, là chứng nhân của tội ác quân thù. Mở đầu tác phẩm là hình tượng hàng trăm, hàng ngàn
cây xà nu bị những mảnh đạn của giặc giày xéo: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây
không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân
mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm
ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bám lại, đen và đặc quyện
thành từng cục máu lớn. Năm ba hôm thì cây chết”. Rõ ràng, rừng xà nu
là biểu tượng cho sự mất mát, đau thương của cả dân tộc trong chiến tranh.
Rừng xà nu bị tàn hại, dân làng Xô Man của Tnú cũng
chịu chung số phận “Làng ở trong tầm đại bác của giặc. Chúng
nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc
đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở lại gà gáy”. Con người của
làng Xô Man cũng như con người Tây Nguyên bị giặc Mỹ đến bao vây, lùng sục,
khủng bố dã man làm cho đầu rơi, máu chảy “giặc treo cổ anh Xút ở cây vả
đầu làng; chúng chặt đầu bà Nhan treo đầu súng; Mai và đứa con chưa đầy tháng
tuổi bị giặc dùng cây sắt đập vào người cho đến chết; Tnú bị chúng đốt mười
đầu ngón tay”. Bằng cách miêu tả hình ảnh
cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu
tội ác dã man của kẻ thù để qua đó, tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những
thảm cảnh nhân dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
|
Ý 4
|
Rừng xà nu
còn là biểu tượng về phẩm chất, truyền thống đấu tranh của dân làng Xô
Man. Tuy bị tàn phá dữ dội nhưng rừng xà nu cũng như dân
làng Xô Man vẫn có sức sống mãnh liệt không gì có thể tiêu diệt được “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn
năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời…Đạn
đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành trên thân
thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã…”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của
cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh. Sức sống mãnh liệt
đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên
ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “Rừng xà nu
ưỡn tấm ngực lớn của mình để che chở cho dân làng’’.
Cũng như con người của làng Xô Man hiên ngang trong
lửa đạn, người người, lớp lớp, thế hệ này ngã xuống tức thì thế hệ sau tiếp
nối, quật khởi đứng lên: Anh Quyết hi sinh thì có Tnú thay thế đảm nhiệm công
việc mà anh Quyết để lại; Mai nằm xuống thì có Dít thay; thấp thoáng bóng
dáng dũng cảm của Tnú ngày xưa thì có bé Heng hôm nay cũng rất thạo đường và
rất gan dạ, thích làm bộ đội. Và đặc biệt cụ Mết là linh hồn, sức quật khởi
của làng Xô Man được ví như “một cây xà
nu lớn”. Chính vì thế, khi gặp Tnú, cụ Mết đã hùng hồn khẳng định với tất
cả niềm kiêu hãnh và thách thức “không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây
mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Đây là sức
sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi: “Một cây ngả
cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nguyễn Trung Thành).
Có được điều này bởi người dân làng Xô Man luôn
hướng về Đảng, về ánh sáng lí tưởng Cách mạng nên họ thay nhau để nuôi giấu cán bộ, thanh
niên bị cấm thì người già thay, người già bị cấm thì trẻ con thay, bởi vì họ quan
niệm “Đảng còn, núi nước này còn”. Cũng
giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức
được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau
giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên
cường, để giữ làng, giữ nước.
|
Nhận xét
chung
|
Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật của
Nguyễn Trung Thành, đã được tác giả
miêu tả công phu, đậm nét, xuyên suốt chiều dài tác phẩm tạo nên không gian
nghệ thuật đậm đà chất Tây Nguyên. Cùng với việc sử dụng biện pháp so
sánh (như mũi tên lao thẳng lên bầu
trời,…) và nhân hoá (bị thương,
chặt đứt ngang nửa thân mình, ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng,…) rất
đặc sắc đã làm cho cây xà nu và rừng xà nu hiện lên một cách sống động hùng
tráng đậm chất sử thi trước mắt người đọc. Hình tượng cây xà nu thật sự là
một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn
hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những lớp ý nghĩa rất
khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tả của tác giả.
Song hình tượng cây xà nu còn là ẩn dụ về con người
làng Xô Man, con người Tây Nguyên trong những ngày đành giặc cứu nước với sức
sống bền bĩ và kiêu hùng. Cho dù cuộc chiến tranh khốc liệt kia đã đi qua,
nhưng hình tượng nghệ thuật ấy vẫn rất giàu sức sống, vẫn như một lời nhắc
nhở về những phẩm giá tốt đẹp của con người. Qua hình tượng này, người đọc
không chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con
người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong
những tháng năm chống Mĩ. Dáng
đứng cây xà nu là dáng đứng VN anh hùng.
|
Kết bài
|
Trong bài viết “Về
truyện ngắn Rừng xà nu”, tác giả đã tâm sự: “Ngay từ năm 1962, trên đường vào miền Nam công tác, đến tỉnh Thừa
Thiên, giáp Lào, tôi được chứng kiến những rừng xà nu bát ngát xanh tít tận
chân trời. Đấy là những cây họ thông, hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong
sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ nhựa ứa ra, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi”.
Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi
nguồn cảm hứng cho tác giả ba năm sau (1965) tạo dựng lên hình tượng cây xà
nu đặc sắc này. Nhìn chung rừng xà nu và con người làng Xô Man tuy hai mà
một, mang ý nghĩa biểu tượng rất cao đẹp và sâu sắc. Nét đặc sắc của truyện
ngắn này chính là ở chỗ nhà văn đã thể hiện sự sinh tồn mạnh mẽ của dân tộc
cho dù chiến tranh có tàn khốc thế nào cũng không thể hủy diệt được.
|
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
ĐỀ 1
Đề bài
|
Phân tích
hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ
chồng A Phủ” của Tô Hoài.
|
Mở bài
|
Tô
Hoài là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ
với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng
tác của ông cũng đa dạng về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết
về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ chồng A Phủ”
được xem là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây
Bắc trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp. Đây
là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ
ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật tâm đắc của mình, đặc biệt
truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị để qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn,
sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc
|
Thân bài
HCST
|
Vợ chồng A
Phủ” (1952) được in chung trong tập
“Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô
Hoài, được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả
chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong
chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với đồng bào dân tộc ít người, hiểu
được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tô Hoài có thêm chất liệu và cảm hứng
để sáng tác thành công tập “Truyện Tây
Bắc” nói chung và “Vợ chồng A Phủ” nói
riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn.
Sau hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút
đối với nhiều thế hệ người đọc.
|
Phân tích
Giới thiệu chung
|
Nếu trong tập “Truyện
Tây Bắc” của Tô Hoài, “Vợ chồng A
Phủ” là truyện thành công nhất, thì trong “Vợ chồng A Phủ”, nhân vật Mị là nhân vật máu thịt nhất. Ở Mị có
hai mặt tưởng như đối lập nhưng lại
rất thống nhất: thứ nhất, Mị bị chà đạp nặng nề, cam chịu đến mất cả sự sống;
thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mị vẫn tiềm ẩn một sức sống để từ đó
vươn dậy và cuối cùng là tháo củi sổ lồng tìm lại lẽ sống cho mình. Mị là hình ảnh tiêu biểu cho số phận những người
phụ nữ nghèo khổ dưới ách thống trị của bọn quan lại phong kiến miền núi.
|
Vợ chồng A
Phủ” mở đầu bằng cách
giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra
thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh
tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm
như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con
dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra
một số phận đau khổ, đắng cay, bất hạnh.
|
|
Mị - cô gái đáng
yêu
|
Mị là cô gái vùng dân
tộc Mèo xinh đẹp, có tài thổi sáo “Mị
uốn chiếc lá trên môi thổi lá hay như thổi sáo”. Mà tài năng âm nhạc bao
giờ cũng báo hiệu sự sống tràn trề của vẻ
đẹp tâm hồn. Mị cũng có trái tim sôi nổi và khao khát yêu thương. Đã bao
lần cô bồi hồi trước âm thanh của những buổi hẹn hò. Mị cũng đã từng được
nhiều người yêu “có biết bao người mê,
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này đến núi khác… Trai đứng nhẵn cả chân
vách đầu buồng Mị”. Mị cũng là cô gái chăm chỉ và hiếu thảo. Đáng lý ra
với những phẩm chất như vậy, Mị phải có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng vì gia
đình nghèo, Mị không có cuộc sống như mình mong muốn.
|
Mị con dâu gạt nợ của nhà thống lý Pá Tra - nạn nhân
của thần quyền
Sức sống tiềm tàng của Mị
|
Nhưng người
con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu cha,
cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong
nhà thống lí. Món nợ nhà giàu truyền kiếp đã cướp trắng tuổi trẻ dạt dào khát vọng. Mị
bị cướp đoạt tình yêu đã đành, đến lễ hỏi cưới xin cũng không có “tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cho bố
cả rồi”. Mị chính là nạn nhân của sự đầu độc áp chế về mặt tinh thần. Bọn
thống lý Pá Tra đã lợi dụng thần quyền, óc mê tín để bắt người nô lệ phải cam
chịu “nó đã bắt mình về trình ma nhà nó thì chỉ đợi ngày chết ở đây thôi”.
Danh nghĩa là con dâu
nhà thống lý giàu có, sung sướng nhưng thực chất Mị là một nô lệ, một thứ tù
khổ sai chung thân. Đời Mị chỉ gắn với những công việc nối nhau, mỗi năm, mỗi
mùa, mỗi tháng cứ thế mà làm đi làm lại “Mị
cúi mặt không nghĩ ngợi gì nữa mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc
giống nhau, tiếp nhau vẻ ra trước mặt. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi
làm lại. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay.
Đến mùa thì đi nương bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng
gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”. Thân phận Mị còn thua
cả con trâu, con ngựa “Con trâu, con
ngựa làm còn có lúc đêm nó được đứng gãi chân nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này
thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”.
Từ đấy, Mị sống cam
chịu nhẫn nhục đến tê liệt cả ý thức phản kháng, sống mà như đã chết, buông
xuôi cho số phận: “Ở lâu trong cái khổ,
Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con
ngựa,… ”. Mị co mình lại né tránh tất cả trong cô độc tuyệt đối “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa”. Và Mị cũng không mong đợi bất cứ điều gì,
không có ý niệm cả không gian và thời gian. Mị về làm dâu nhà thống lý đã mấy
năm, từ năm nào cô cũng không nhớ cũng không còn ai nhớ. Từ đó, đời cô gắn
liền với căn buồng. Hình ảnh căn buồng được miêu tả nhiều lần trong tác phẩm:
“Ở căn buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn
tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là
nắng. Mị nghĩ rằng, mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến
bao giờ chết thì thôi”. Hình ảnh căn buồng có ý nghĩa hiện thực. Nó như
một thứ ngục thất tinh thần giam hãm thân xác Mị, cách ly tâm hồn cô với cuộc
đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của Mị. Rõ ràng, Mị đang sống cuộc sống
tinh thần mòn mỏi, tàn lụi.
Có thể thấy, Tô
Hoài đã diễn tả chân thực nỗi cực nhọc về thể xác của Mị để nói lên tiếng nói
tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã chà đạp lên quyền sống của con người.
Cái chế độ ấy đáng lên án, nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa
của niềm vui sống trong những con người lao động.
Nhưng cũng có lúc hoàn cảnh
không thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm hồn Mị không hoàn toàn
giá băng. Lòng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy
sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức
sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Trong truyện, sức sống tiềm tàng của Mị
trỗi dậy ba lần.
|
Lần 1
|
Ở lần thứ 1, đó là sau khi bị bắt về làm dâu gạt nợ
nhà thống lý, có đến mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Rồi không thể chịu
đựng Mị đã trốn về nhà chào bố với nắm lá ngón tự tử. Trong hoàn cảnh đó,
chết cũng là một cách để chống lại số phận. Niềm khao khát được sống như một
con người đã khiến cô không chấp nhận thân phận nô lệ. Tìm đến cái chết lúc
này là dấu hiệu của sự phản kháng.
|
Lần 2 Trong đêm tình mùa xuân
|
Mùa xuân là mùa tết, mùa của tình yêu hạnh phúc.
Ngoại cảnh tác động vào nội tâm của Mị đã đánh thức tâm hồn khao khát lứa đôi
của Mị. Hơi men và tiếng sáo là tác nhân đánh thức lòng ham sống của Mị. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng
bát” trong trạng thái khác thường. Cách uống “ừng ực từng bát” như thế dường như cô đang uống đắng cay của cuộc
đời mình vì hơi men giúp Mị quên hiện tại cay đắng và tiếng sáo làm Mị phơi
phới trở về ngày trước. Mị ý thức được bản thân mình, cõi lòng đã phơi phới
trở lại, nhưng một ý nghĩ rất lạ lùng mà chân thực xuất hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị
sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên nhưng
chính là niềm khao khát hồi sinh.
Lúc này “trong
lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm ngày tết trước”. Mị tìm ra lý
lẽ để đấu tranh cho quyền được sống. Lập luận ngày càng chặt chẽ từ thấp đến
cao “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị
muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi Mị và
A Sử không có lòng với nhau”. Và hành động đầu tiên có ý nghĩa như sự
thức tỉnh đó là “Mị thắp sáng ngọn đèn,
rồi Mị quấn tóc lại ,lấy cái váy hoa chuẩn bị đi chơi như ngưòi tự do”.
Đây là ý nghĩ hết sức táo bạo, chứng tỏ khát vọng tự do đã lên đến đỉnh điểm
và ngày càng mãnh liệt.
Nhưng ý định của Mị không thực hiện được, khát vọng
sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt. A Sử trở về, phát hiện ra ý định của Mị nên
đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Rồi hắn còn quấn luôn tóc
Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được. Đây là một hành động vô
cùng độc ác, dã man và ích kỉ, tàn tệ của A Sử, một trong những nhân vật đại
diện cho thế lực phong kiến ở đây. Mặc dù thân thể bị hành hạ nhu thế, nhưng
tâm hồn Mị vẫn còn sống với những khát vọng cháy bỏng. Mị vẫn nghe tiếng sáo
và có cảm tưởng như đang bước đi. Nhưng bị dây trói thít lại đau nhức từng
cơn “Mị không còn nghe tiếng sáo nữa và
chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Đau đớn làm Mị trở về với
thực tại và ý thức được được rằng thân mình không bằng con ngựa. Khi cận kề
với cái chết, Mị lại cảm thấy sợ chết “Mị
sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết”. Điều này rất quan
trọng bởi đây là cái tiềm tàng của tình yêu cuộc sống nơi Mị. Có thể thấy,
tâm hồn Mị câm lặng mà ngầm chứa một sức sống lạ lùng. Đó cũng chính là giá
trị nhân đạo của tác phẩm.
|
Lần 3
Trong đêm mùa đông ở rẻo cao giải thoát cho A Phủ
|
Đây là đoạn văn hay nhất trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn này chứng tỏ
ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài rất sắc sảo. Nhân vật của ông
luôn là con người tâm trạng để tiến tới một hành động. Đoạn văn này được miêu tả rất
khéo léo.
Đêm đầu tiên, Mị nhìn
thấy A Phủ bị trói vào cột nhà “Mị vẫn
thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu như A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế
thôi”. Cả mấy đêm như vậy, tâm hồn Mị có vẻ dửng dưng vô cảm bởi vì việc
trói người được lặp đi lặp lại thường xuyên ở nhà thống lí Pá Tra: ngày xưa
chị dâu Mị bị trói, Mị cũng bị trói và hôm nay đến lượt A Phủ. Hình ảnh dây
trói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm vừa mang ý nghĩa hiện
thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sợi dây trói buột của xã hội phong
kiến đối với những người lao động nghèo.
Nhưng rồi một đêm, Mị trở dậy
thổi lửa hơ tay và qua ánh lửa bập bùng, Mị thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”
của A Phủ, đây là biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng của A Phủ. Mị bắt đầu xúc
động. Mị nhớ lại chính mình ngày trước, cũng từng bị trói đến chết ở đây “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống
cổ không biết lau đi được”. Từ
sự thật trước mắt và bản thân,Mị nhận thức được bản chất của bọn thống trị “chúng nó thật độc ác”.
Và Mị nhận ra cái chết của A Phủ sẽ thật là đau đớn và vô lí. Lúc này, Mị
đang đứng giữa hai con đường: một là cam chịu, hai là phản kháng. Cuối cùng
tinh thần phản kháng đã chiến thắng, Mị đi đến một hành động táo bạo là “cắt dây cởi trói cho A Phủ”. Nhưng nếu
Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ thì ai sẽ là người thay thế A Phủ chịu trói vào
cái cột ấy.Vì thế Mị có thêm một quyết định nữa là chạy theo A Phủ “A Phủ cho tôi đi với …ở đây thì tôi chết
mất”. Như vậy, hành động cởi trói cho A Phủ cũng là cởi trói cho chính
mình . Ở đây cùng một lúc, Mị đã cắt đứt hai sợi dây trói: sợi dây trói cụ
thể và sợi dây trói vô hình. Qua việc cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài
muốn đặt ra một vấn đề, chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới có thể thông cảm
và giúp đỡ lẫn nhau để cùng giải thoát cho chính mình.
|
Nhận xét
chung
|
Qua cuộc đời bị đoạ đày tàn lụi của Mị, tác giả đưa
ra bản cáo trạng lên án thế lực phong kiến xấu xa chà đạp lên con người. Đồng
thời thể hiện lòng cảm thông sâu sắc với những kiếp sống bé mọn. Qua diễn
biến tâm lý của nhân vật Mị, ta thấy lòng xót thương, đồng cảm của tác giả
với ngọn lửa sống khi cháy sáng, khi âm ỉ nhưng chưa bao giờ tắt trong lòng
trái tim con người cơ cực. Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả
lòng yêu thương, thông cảm và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới
phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.
|
Kết bài
|
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời,
số phận, tính cách Mị, nhà
văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo
áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng
khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những
người lao động, đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những
người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng
trước thời gian của “Vợ chồng A Phủ”.
|
ĐẾ 2
Đề bài
|
Phân tích
diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân trong truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
|
Mở bài
|
Tô
Hoài là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ
với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng
tác của ông đa dạng về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề
tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ chồng A Phủ”
được xem là tác phẩm thành công
nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của
ngòi bút Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây
dựng những nhân vật tâm đắc của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành
công nhân vật Mị. Nhân vật Mị là một sáng
tạo đặc sắc của Tô Hoài và chi tiết đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình
tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát
tình yêu của người con dâu gạt nợ.
|
Thân bài
HCST
|
Vợ chồng A
Phủ” (1952) được in chung trong tập
“Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô
Hoài, được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả
chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong
chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với đồng bào dân tộc ít người, hiểu
được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tô Hoài có thêm chất liệu và cảm hứng
để sáng tác thành công tập “Truyện Tây
Bắc” nói chung và “Vợ chồng A Phủ” nói
riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn.
Sau hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút
đối với nhiều thế hệ người đọc.
|
Phân tích
Giới thiệu chung
|
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân
phơi phới. Nhưng vì món nợ nhà giàu truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ
nhà thống lý Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước
đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu, con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử,
nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như
vô cảm vô hồn "càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
Sống buông xuôi, sống mà như đã chết. Nhưng cũng có lúc hoàn cảnh không thể dập tắt
được sức sống của một con người. Tâm hồn Mị không hoàn toàn giá băng. Lòng
ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy sâu tiềm thức
của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức sống ấy sẽ trỗi
dậy nếu gặp cơ hội. Và đó chính là đêm
tình mùa xuân.
|
Khung cảnh ngày
xuân nhân tố tác động
sâu sắc đến Mị
|
Xuân qua rồi xuân trở
lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa
ngô đã thu hoạch xong, gió và rét dữ dội thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những
chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, tiếng cười ầm của đám trẻ
con chơi quay , tiếng sáo thổi ngoài đầu núi rủ bạn đi chơi. Trước cảnh tưng
bừng ấy, cứ tưởng Mị "Riêng mình nào biết có xuân là gì?".
Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi
xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị đã được Tô Hoài thể hiện một cách
tinh tế, xúc động, phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung
bậc sau cao hơn cung bậc trước.
|
Âm thanh tiếng sáo
|
Ban
đầu, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi gọi bạn đi chơi xa xa, ở ngoài đầu ngõ: “Tiếng
sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Mị rung lên những tình cảm lạ và lẩm
nhẩm hát theo bài hát người đang thôi sáo:
"Mày có con trai con gái
Mày đi làm
nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Tiếng sáo gọi bạn tình "văng
vẳng" trong tai. Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh tâm
hồn Mị. Đây có lẽ là dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Cô bắt đầu nghe được
âm thanh của sự sống và đang dần dần hoà nhập vào cuộc sống. Ttiếng sáo chính
là tác nhân đánh thức lòng ham sống của Mị.
|
Uống rượu và sống về kỉ
niệm
|
Tiếp đến, Mị tìm đến
với rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống
ừng ực từng bát” trong trạng thái khác thường. Cách uống “ừng ực từng bát” như thế dường như cô
đang uống đắng cay của cuộc đời mình, uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Bởi hơi
men giúp Mị quên hiện tại cay đắng. Rồi say rượu "lịm mặt",
Mị hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp của thời con gái: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng
hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
Mị tự hào về tài năng của mình, hãnh diện về một thời tươi đẹp xưa kia. Mị
bắt đầu ý thức được bản thân mình, cõi lòng đã phơi phới trở lại, nhưng một ý
nghĩ rất lạ lùng mà chân thực xuất hiện “nếu
có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ
lại nữa”. Lòng ham sống trào dậy đầu
tiên trong ý nghĩ muốn chết ngay, bởi Mị không thể cam chịu mãi kiếp
con dâu gạt nợ. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu "vẫn
lửng lơ bay ngoài đường". Những cảm xúc trong tâm hồn Mị đang dần
sống lại. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn.
Nghịch lí trên nhưng chính là niềm khao khát được sống.
|
Chuẩn bị đi chơi
|
Lúc này “trong
lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm ngày tết trước”. Mị tìm ra lý
lẽ để đấu tranh cho quyền được sống. Lập luận ngày càng chặt chẽ từ thấp đến
cao “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị
muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi Mị và
A Sử không có lòng với nhau”. Lúc này, Mị đang sống trong nghịch lí giữa
thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Những suy nghĩ
sục sôi trong tâm tư đã dẫn Mị đến hành động: Mị vào buồng, lần này không
phải để nhìn qua "cái lỗ vuông" để nghĩ đến cái chết, mà
Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện
bất ngờ. Hành động đầu tiên có ý nghĩa như sự thức tỉnh đó là “xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho
sáng…Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo chuẩn bị đi
chơi Tết như một người tự do”. A Sử nhìn, Mị "cũng không
nói" hay không thèm nói? Đây là ý nghĩ và hành động hết sức táo
bạo. Hàng loạt hành động "nổi loạn" diễn ra liên tiếp khi
tiếng sáo đang "rập rờn" trong đầu Mị. Tất cả chứng tỏ
khát vọng tự do đã lên đến đỉnh điểm và ngày càng mãnh liệt.
|
A Sử ngăn cản ý định của Mị
|
Nhưng ý
định của Mị không thực hiện được, khát vọng sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt.
A Sử phát hiện ra ý định của Mị nên đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng một
thúng sợi đay. Rồi hắn còn quấn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi,
không nghiêng được. Đây là một hành động vô cùng độc ác, dã man và ích kỉ,
tàn tệ của A Sử, một trong những nhân vật đại diện cho thế lực phong kiến ở
đây. Mặc dù thân thể bị hành hạ như thế, nhưng tâm hồn Mị vẫn còn sống với
những khát vọng cháy bỏng. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong
cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô
Hoài như đã "nhập hồn" vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị "đứng
im lặng". Hơi rượu còn "nồng nàn" như nâng đỡ
tâm hồn Mị. Mị "vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi". Mị vùng bước đi, lòng "bồi hồi"
theo tiếng sáo: "Em không yêu quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em
bắt pao nào...".
Mị lại
trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục "tay chân đầu không cựa
được". Mị "thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa"
khi nghe tiếng ngựa "gãi chân", nhai cỏ, tiếng chó sủa xa
xa. Mị nghĩ đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã "dỡ
vách ra rừng chơi". Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi trong trạng thái
lúc mê lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị "nồng
nàn tha thiết nhớ". Bị trói đứng suốt đêm, Mị "bàng hoàng
tỉnh" cho đến lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo - Không một
tiếng động - Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà "khốn
khổ sa vào nhà quan"; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết
trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân
phận những người đàn bà ở Hồng Ngài "một đời con người chỉ biết đi
theo đuôi con ngựa của chồng". Mị sợ hãi "cựa quậy"
xem mình còn sống hay chết, dây trói siết chặt lại "đau dứt từng
mảnh thịt". Điều này rất quan trọng bởi đây là cái tiềm tàng của
tình yêu cuộc sống nơi Mị. Có thể thấy, tâm hồn Mị câm lặng mà ngầm chứa một
sức sống lạ lùng. Đó cũng chính là giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
|
Tiếng sáo
|
Ở đoạn văn miêu tả diễn biến tâm
trạng Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài nhiều lần nhắc đến tiếng sáo. Vào
một ngày Tết “Mị nghe tiếng sáo vọng
lại, thiết tha bổi hổi”. Mị chợt nhận ra những đêm tình mùa xuân đã tới “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu
làng”. Chính âm thanh tiếng sáo dìu dặt đã làm cho Mị nhớ lại “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Lúc Mị
muốn chết thì “Tiếng sáo gọi bạn yêu
lửng lơ bay ngoài đường”. Có lẽ tiếng sáo gọi bạn này đã tiếp thêm sức
mạnh cho Mị hành động. Mị chuẩn bị đi chơi khi “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Khi bị A Sử trói đứng ở cột nhà
“Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”…. Âm thanh tiếng sáo vốn là biểu
tượng của mùa xuân, của tình yêu, của sự sống. Mị nghe được âm thanh này
chính là Mị nghe được âm thanh của cuộc sống, của hạnh phúc. Tiếng sáo gọi
bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như
lay gọi, như vỗ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình
yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.
|
Nhận xét chung
|
Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh: Cảnh Mị ngồi
nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát; cảnh Mị chuẩn bị váy áo
đi chơi; cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết
nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ.
Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích
diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc.
|
Kết bài
|
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời,
số phận, tính cách Mị, nhà
văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo
áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng
khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những
người lao động, mà điển hình là Mị. Chính điều này đem lại sức sống và sự
vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng
A Phủ”.
|
ĐỀ 3
Đề bài
|
Phân tích
diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông giải thoát cho A Phủ
trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
của Tô Hoài.
|
Mở bài
|
Tô
Hoài là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ
với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng
tác của ông đa dạng về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề
tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ chồng A Phủ”
được xem là tác phẩm thành công
nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của
ngòi bút Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây
dựng những nhân vật tâm đắc của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành
công nhân vật Mị. Nhân vật Mị là một sáng
tạo đặc sắc của Tô Hoài và chi tiết miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật
Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Đây là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của
truyện đã thể hiện khát vọng sống của Mị. Qua đó, ta thấy được giá trị hiện
thực và nhân đạo của tác phẩm.
|
Thân bài
HCST
|
Vợ chồng A
Phủ” (1952) được in chung trong tập
“Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô
Hoài, được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả
chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong
chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với đồng bào dân tộc ít người, hiểu
được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tô Hoài có thêm chất liệu và cảm hứng
để sáng tác thành công tập “Truyện Tây
Bắc” nói chung và “Vợ chồng A Phủ” nói
riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn.
Sau hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối
với nhiều thế hệ người đọc.
|
Phân tích
Giới thiệu chung
|
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân
phơi phới. Nhưng vì món nợ nhà giàu truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ
nhà thống lý Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước
đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu, con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử,
nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như
vô cảm vô hồn "càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
Sống buông xuôi, sống mà như đã chết.
Nhưng cũng có lúc hoàn
cảnh không thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm hồn Mị không hoàn
toàn giá băng. Lòng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy
trong đáy sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh
liệt, sức sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Sau đêm tình mùa xuân, đúng một
năm sau, đêm mùa đông giải thoát cho A Phủ. Đây là đoạn văn hay nhất trong
tác phẩm. Đoạn này chứng tỏ ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài
rất sắc sảo. Nhân vật của ông luôn là người tâm trạng để tiến tới một hành
động. Đoạn văn này được miêu tả rất
khéo léo.
|
|
A Phủ là một thanh niên
có thân phận như Mị, vì đánh A Sử nên bị phạt vạ phải ở cho thống lý Pá Tra
để gạt nợ. Do để hổ ăn mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang
ngày kia. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Không gian lạnh lẽo mà
lòng người cũng lạnh. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với
Mị, nếu không có bếp lửa ấy, Mị sẽ chết héo. Đêm đầu tiên, Mị nhìn thấy A Phủ
bị trói vào cột nhà “Mị vẫn thản nhiên
thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác đứng đấy cũng thế thôi”. Cả mấy đêm như vậy, tâm hồn Mị có vẻ
dửng dưng vô cảm với những gì diễn ra chung quanh. Tâm hồn Mị như tê dại
trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau
Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Thản nhiên cũng bởi việc trói
người lặp đi lặp lại thường xuyên ở nhà thống lí Pá Tra: ngày xưa chị dâu Mị
bị trói, Mị cũng bị trói và hôm nay đến lươt A Phủ. Hình ảnh dây trói được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang
ý nghĩa đặc trưng. Đó là sợi dây trói buộc của xã hội phong kiến đối với
những người lao động nghèo.
|
|
Nhưng rồi một đêm, Mị trở dậy
thổi lửa hơ tay và qua ánh lửa bập bùng, Mị thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của
A Phủ. Đây là biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng A Phủ. Mị bắt đầu xúc động. Mị
nhớ lại chính mình ngày trước cũng từng bị trói đến chết ở đây “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng,
xuống cổ không biết lau đi được”. Từ sự thật trước mắt và bản thân, Mị
nhận thức được bản chất của bọn thống trị “chúng
nó thật độc ác”. Và Mị nhận ra cái chết cuả A Phủ sẽ thật sẽ thật đau đớn
và vô lí. Mị phảng phất nghĩ gần, nghĩ
xa: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà,
nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà
thôi… Người kia việc gì phải chết thế?” Mị xót xa cho A Phủ như xót xa
cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Trong lòng
Mị trỗi dậy lòng thương người cùng cảnh ngộ.
|
|
Lúc này, Mị đang đứng
giữa hai con đường một là cam chịu, hai là phản kháng. Cuối cùng tinh thần
phản kháng đã chiến thắng, Mị đi đến một hành động táo bạo là “cắt dây cởi trói cho A Phủ”. Rõ ràng,
tình thương lớn hơn cái chết. Nhưng nếu Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ thì ai
sẽ là ngừơi thay thế cho A Phủ chịu trói vào cái cột ấy. Vì thế Mị có thêm
một quyết định nữa là chạy theo A Phủ “A
Phủ cho tôi đi với… ở đây thì tôi chết mất”. Như vậy, hành động cởi trói
cho A Phủ cũng là cởi trói cho chính mình. Ở đây cùng một lúc, Mị đã cắt đứt
hai sợi dây trói: sợi dây trói cụ thể và sợi dây trói vô hình.
Đây không phải là hành
động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng
sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A
Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy
là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống
lại cả cường quyền và thần quyền. Qua việc cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô
Hoài muốn đặt ra một vần đề, chỉ có những ngừơi cùng cảnh ngộ mới có thề
thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau để cùng giải thoát cho chính mình.
|
Nhận xét chung
|
Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật
Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân
vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị
- cởi trói cho A Phủ - có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con
người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những
nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài
đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt
đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn
xuôi cách mạng đương đại Việt Nam” ( Trần Đình Sử )
Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ,
chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đoạ đày vả về
thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Nhà văn
phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người mới có được cái
nhìn nhân đạo sâu sắc.
|
Kết bài
|
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời,
số phận, tính cách Mị, nhà
văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo
áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng
khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những
người lao động, mà điển hình là Mị. Chính điều này đem lại sức sống và sự
vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng
A Phủ”.
|