B .MỘT SỐ
ĐỀ VĂN THAM KHẢO
BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ
MINH
Đề bài
|
Có người nói: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn là một
bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ
hùng hồn đầy sức thuyết phục”.
|
Mở bài
|
Vào thời điểm chuyển mình của
lịch sử dân tộc thường xuất hiện những ánh văn bất hủ, đánh dấu cho một thời
đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những tuyên ngôn nổi tiếng
thế giới như Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ năm 1776, Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân
tộc VN ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là Bình ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử.
|
HCST
|
Ngày 19/ 8/ 1945 chính quyền thủ đô về tay nhân dân. Ngày 26. 8 Chủ
Tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới HN. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang,
Người soạn thảo bản TNĐL. Ngày
2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - HN trong hoàn cảnh: thù trong giặc ngoài,
vận mệnh Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc (bọn đế quốc, thực dân đang rắp tâm
cướp nước ta lần nữa), Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước VNDCCH đọc
bản TNĐL, trước 50 vạn đồng bào.
|
Giá trị lịch
sử v. bản
|
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ
Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn,
tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc
lập tự do của dân tộc. Có thể nói bản Tuyên
ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả cao của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng”
của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam
Sự kiện trọng đại ấy đã để lại
dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Nhưng ta sẽ không hiểu
hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu không trở lại với không khí chính trị
căng thẳng, nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ. Cho đến đầu mùa thu năm
1945, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển thật mau lẹ. Cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ hai đang đi vào những ngày cuối. Sự cáo chung của phe Phát
xít và sự thắng trận của quân Đồng minh sẽ là kết cục không thể đảo ngược.
Chớp lấy thời cơ đó, nhân dân ta, dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Việt Minh đã
vùng lên cướp lấy chính quyền. Chỉ trong vòng một tuần lễ “Sao vàng năm cánh” không còn là “mộng” nữa mà đã tung bay trên khắp ba
miền. Nhưng cũng chính lúc này, nhiều đế quốc bắt đầu nhòm ngó Đông Dương và
không dấu ý đồ thôn tính nước ta. Không thể chần chừ, Việt Nam cần phải tuyên
bố độc lập!
Bản Tuyên ngôn vì thế đã
đóng vai trò hoàn tất một sứ mệnh lịch sử. Không còn nghi ngờ gi nữa, sự ra
đời đúng lúc của bản Tuyên ngôn Độc lập
đã chặn đứng âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, chống lại ý đồ can
thiệp vào Việt Nam của đế quốc Mĩ, mở đầu cho làn sóng giải phóng thuộc địa ở
Châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao giá trị của dân tộc ta trên trường
quốc tế. Bản Tuyên ngôn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của Thực dân
Pháp, 5 năm cướp bóc, giày xéo của Phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong
kiến. Với ý nghĩa như vậy, bản Tuyên
ngôn Độc lập đã thật sự khai sinh ra một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ
nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.
|
Giá trị v/học
|
Toàn
văn bản không dài chỉ gói gọn trong khoảng một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt
chẽ và súc tích. Bản tuyên ngôn chia 3 phần rõ rệt. Lời tuyên bố độc lập dựa
trên những cơ sở
pháp lí và thực tế lịch sử. Bên cạnh những giá trị lịch sử to lớn đã nói
trên, bản Tuyên ngôn còn là một bài
văn chính luận tiêu biểu xuất sắc. Nó
được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước ngoặc vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do, độc lập
cháy bỏng của dân tộc Việt nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc
luôn luôn bị sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng hùng văn được kết
tinh bởi trí tuệ và tâm huyết Hồ Chí Minh – Người con ưu tú của dân tộc – và
bởi tự thân tác phẩm – tiếng nói chân lí của thời đại. Mọi chân lí đều hết
sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp đầu tiên của bản
Tuyên ngôn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại
có bố cục ngắn gọn, súc tích như vậy. Trước hết , là một thông điệp chính
trị, bản Tuyên ngôn hướng tới những mục đích nhất thời, quan trọng có tính
cấp thiết, bức bách, nước sôi, lửa bỏng. Trong một tình thế như vậy, sự ngắn
gọn, mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thông tin nhanh chóng và triệt để. Tất
nhiên, không phải sự ngắn gọn nào cũng tạo nên tính chất súc tích, cô đọng và
không phải sự cô đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh. Bản tuyên ngôn dường như
chỉ xoáy sâu vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hoàn toàn quyền dính líu
tới Việt Nam của thực dân Pháp. Thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết
tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập đó. Vì những mục tiêu này, các ý tưởng, các
kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn, sáng sủa.
|
Như đã nói ở trên, văn kiện
lịch sử này không chỉ đọc trước quốc dân, đồng bào mà còn trước thế giới. Đây
còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù. Cho nên, phần đầu của bản
tuyên ngôn là cơ
sở pháp lý vững chắc để đi đến khẳng định nguyên lí chung rằng: tất
cả mọi người, mọi dân tộc đều có quyền
được sống bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu h.phúc. Cụ thể Bác đã trích dẫn lại hai bản tuyên ngôn:
Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776) “Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyến ấy có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) đã nêu: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyến lợi, và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng được cả thế
giới công nhận, là chân lý muôn
đời của thời đại, được đúc kết
từ thực tiễn máu xương của hai cuộc CMTS. Tuy nhiên, Người đã vận
dụng chân lí đó một cách linh
hoạt, đầy sáng tạo, kết hợp ý
kiến của người với ý kiến của mình: “suy rộng ra” thành quyền bình
đẳng, tự do của các dân tộc. Bác nhanh chóng tiến từ quyền con
người sang quyền dân tộc. Đó là đóng góp to lớn về mặt tư tưởng của
Bác. Từ đó nhằm nhấn mạnh giá trị hiển nhiên của độc lập, tự do các dân tộc.
Thực chất đây là sách
lược mềm dẻo, tỏ ra khiêm tốn, tôn cao những giá trị bất hủ của
Pháp và Mỹ. Nhưng thật ra, Bác muốn rung hồi chuông cảnh báo, nếu
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược VN nghĩa là chúng đã đi
ngược lại lời của cha ông chúng, là những kẻ thất ước. Như vậy
cùng một lúc Bác đã bắn một mũi tên trúng nhiều đích. Cái độc đáo
và khéo léo của Bác là đã dùng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”, “dùng
lời của kẻ thù để khóa miệng kẻ thù” để ràng buộc các nước Đồng minh. Kết
thúc phần một là một lời chốt ngắn gọn đầy sức thuyết phục: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi
được” nhằm khẳng định chắc chắn về quyền con người và quyền dân tộc. Bác quả là có con mắt sáng nhìn
xa trông rộng (Nhìn bốn hướng – Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau –
Trông Bắc, trông Nam trông cả địa cầu). Tóm lại, bằng phương pháp suy
lý diễn dịch, lập luận chặt chẽ, súc tích, ngắn gọn, sáng tạo,
đoạn mở đầu đã tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ.
|
|
Để tố cáo thực dân Pháp, tác
giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế cùng hàng loạt sự
phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muốn chối
cãi, chúng cũng không thể. Để tránh những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con
đen” mà thực dân Pháp đã cố dựa vào như một nguỵ thuyết để rắp tâm quay trở
lại thống trị nước ta, một lần nữa, tác giả đã vạch rõ: “Mùa thu năm 1940, Phát xít nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm
căn cứ đánh Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta
rước Nhật” (…) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải của Pháp nữa.
(…) Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ
tay Pháp”. Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, vì sự thấu hiểu
tình hình chính trị một cách sâu sắc, bằng những chứng cứ đầy đủ và xác thực,
bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo
trạng đanh thép lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp.
Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục
của bản Tuyên ngôn còn là ở sự
chính xác và giàu sức biểu cảm của hệ thống ngôn từ. Chẳng hạn, sau khi viện
dẫn hai bản tuyên ngôn, nhưng không dừng lại ở nội dung hai bản Tuyên ngôn đó
mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”,
“Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của
chúng ta trong những bể máu…”, “Chúng
ràng buộc (…) chúng bóc lột (…) chúng cướp (…) chúng giữ độc quyền (…) chúng
còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị …”. Khi tuyên bố thoát li hẳn
với thực dân Pháp, bản Tuyên ngôn có những từ vừa chính xác vừa chọn lọc:
“Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ không phải với) nước Việt
Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Ngoài ra,
việc sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc
khẳng định các ý tưởng, vừa bảo đảm độ chính xác và sức mạnh cho lí lẽ vừa
gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm, thôi thúc người nghe nhận ra và thừa
nhận chân lí.
|
|
Kết bài
|
Tất cả những điều đó đã khẳng
định trình độ nghệ thuật xuất sắc của tác giả, đưa Tuyên ngôn Độc lập trở
thành một mẫu mực của thể văn chính luận. Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng
Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn đồng thời là
một tác phẩm chính luận xuất sắc, mẫu mực. Tuyên ngôn Độc lập – mở đầu cho kỉ
nguyên độc lập, tự do, tạo điều kiện cho mọi thay đổi căn bản của đời sống
dân tộc, trong đó có văn học
|
BÀI VIỆT
BẮC – TỐ HỮU
ĐỀ 1
Đề bài
|
Phân tích
đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy
thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ
không
Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
|
Mở bài
|
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn,
tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của
lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng
nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất
là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem
là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài
thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước,
nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển
hình nhất là tám dòng thơ đầu trong bài thơ “VB”:
“ dẫn chứng thơ 8 dòng đầu”
|
HCST
|
Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc,
là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt
Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng
tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc
(1946-1954).
|
GT
đại ý
|
Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp
giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc với người cán bộ kháng
chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
|
P/tích bốn dòng đầu
|
Mở đầu bài thơ là những câu hỏi của người ở
lại (Việt Bắc) với người ra đi (cán bộ kháng chiến) trong buổi chia tay thật
bồi hồi tha thiết:
Mình về mình có nhớ
ta
Mười lăm năm ấy
thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ
không
Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn ?
Điệp
từ “nhớ” lặp đi lặp lại trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng cùng
với cách đối đáp “mình – ta” thân mật tình cảm tràn đầy
thương nhớ. Ta từng bắt gặp điều này trong ca dao: “Mình về ta chẳng cho
về – Ta nắm dải áo, ta đề câu thơ” hay
“Mình về có nhớ ta chăng - Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
Đặc biệt những từ “mình có nhớ ta”, “thiết tha mặn nồng” đúng
là giọng điệu của những người đang yêu nhau giờ trong phút chia tay
giã biệt. Thật ra đây không phải là tình yêu nam nữ mà là tình quê hương đất
nước, tình quân dân thắm thiết. Trong đoạn thơ trên có hai câu hỏi: một
câu hướng đến thời gian“15 năm” (chỉ độ dài được tính từ cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn năm 1940 đến khi kháng chiến chống Pháp
kết thúc thắng lợi, thời gian nói lên chiều dài gắn
bó thương nhớ: Việt Bắc với cách mạng). Câu
thơ mang âm hưởng Truyện Kiều “Những là rày ước
mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”; Câu hỏi còn lại hướng đến không gian “núi sông” nhìn
cây nhớ núi – nhớ Việt Bắc; nhìn sông nhớ nguồn – nhớ về cội nguồn. Câu thơ chất chứa
tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò
kín đáo, lời nhắc nhở về
những tình cảm thiêng liêng: đừng quên cội nguồn
Việt Bắc – cội nguồn cách mạng.
|
P/tích bốn dòng sau
|
Câu hỏi của
người ở lại vừa vang lên thì gặp sự hô ứng của người về:
Tiếng ai tha thiết
bên cồn
Bâng khuâng trong
dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi
phân li
Cầm tay nhau biết
nói gì hôm nay..
“Ai” là đại từ phiếm chỉ nhưng cũng
rất rõ ràng làm cho lời thơ thêm tình tứ và đầy ý vị. Với cách dùng từ “ai” khiến cho câu thơ mang âm hưởng
của ca dao và gợi một không gian gần gũi, thân thương:
Tiếng ai tha thiết bên cầu…
Hai từ láy “bâng khuâng, bồn
chồn” được sử dụng chính xác, diễn tả rất đúng không khí và tâm trạng
biệt li, tâm trạng bồi hồi xao xuyến, lưu luyến,
nhớ thương,… hòa lẫn cùng một lúc trong phút chia tay. Bởi mười lăm năm Việt
Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau đầy những
kỉ niệm, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô
Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm
trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Hai
từ này được dùng cân xứng trong câu
thơ tiểu đối tạo âm điệu dìu dặt, xao xuyến.
Cảnh tiễn đưa đầy xúc động qua hình ảnh “Áo
chàm đưa buổi phân li”. Tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua
hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc
của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần
không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. “Áo chàm” là
màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc. Đây là hình ảnh hoán
dụ gợi nhớ con người Việt Bắc chân chất, mộc mạc mà nghĩa tình bền
chặt.
Tình cảm lưu luyến ấy còn được biểu
đạt bằng cử chỉ rất cảm động: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Nhịp của câu thơ lục bát này đã có sự xáo trộn
(3/3/2) để diễn tả thần tình cái ngập ngừng, bối rối lúc chia tay. Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ:
"Bước đi một bước, giây giây lại
dừng". “Cầm tay” gợi tình cảm thắm thiết, yêu
thương, không muốn rời xa của người đi, kẻ ở. Ta từng bắt gặp điều này trong
bài thơ “Khóc Dương Khuê” của
Nguyễn Khuyến “Cầm tay hỏi hết xa gần”,
hay “Thương
nhau tay nắm lấy bàn tay…” (Đồng chí - Chính Hữu). Còn “Biết nói gì”
không phải là không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn
nói nhưng không biết phải nói điều gì, hoặc vì xúc động nên nói không
nên lời, ngôn ngữ dường như đã trở nên bất lực trong hoàn cảnh này. Cái không
lời này nhưng thể hiện được nhiều nhất tình cảm dạt dào, dâng trào trong nỗi
xúc động. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một nốt
lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
|
Nhận xét chung
|
Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là
cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc chia tay lớn mang tính
chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố
Hữu - giọng tâm tình như tiếng
nói “đồng tâm, đồng tình, đồng chí”. Lời thơ là tiếng lòng thiết tha:
“ Thơ chỉ tràn ra trong trái tim ta
cuộc sống đã thật đầy” (Tố Hữu). Đoạn thơ còn là tiếng lòng thiết tha của
nhà thơ với cuộc đời, với nghĩa tình sâu nặng của nhân dân.
|
Kết bài
|
Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà
anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt
Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân
tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội
nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
Về hình thức, bài thơ đậm đà tính
dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình –
ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở,
người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao
biến động của cuộc sống, bài thơ nói chung và những dòng thơ trên nói riêng
vẫn rung cảm lòng người.
|
ĐỀ 2
Đề bài
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu:
Mình đi, có nhớ
những ngày
Mưa nguồn suối lũ,
những mây cùng mù
Mình về, có nhớ
chiến khu
Miếng cơm chấm
muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi
nhớ ai
Trám bùi để rụng
măng mai để già
Mình đi, có nhớ
những nhà
Hắt hiu lau xám,
đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi
non
Nhớ khi kháng Nhật,
thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có
nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
|
Mở bài
|
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca
VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Mọi
sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều
kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của
thơ kháng chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt
Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc
hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM
được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển hình nhất
là mười hai dòng thơ sau trong bài thơ “VB”.
Từ dòng thứ chín đến dòng hai mươi.
“ dẫn chứng thơ 12 dòng tiếp”
|
HCST
|
Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc,
là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt
Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng
tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc
(1946-1954).
|
GT
đại ý
|
Trong
bài thơ, sau những lời ướm hỏi ngọt ngào trong khúc dạo đầu ở đoạn trên, mười hai dòng thơ tiếp theo làm thành
sáu câu hỏi tiếp tục là lời của người ở lại gợi nhắc về những kỉ niệm, những
ân tình – mỗi câu hỏi gợi một cái gì thật tiêu biểu, thật ấn tượng về Việt
Bắc. Bao kỉ niệm của một thời gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, đầy ân tình được
thể hiện chân thực qua đoạn thơ gợi nhiều cảm xúc cho người đọc.
|
P/tích 12 dòng thơ
|
Trước hết, đoạn thơ gợi về Việt Bắc với những
ngày tháng không thể nào quên của một thời kháng chiến. Nói khác hơn, Việt Bắc nhắc người cán bộ kháng chiến đừng quên những
năm tháng gian lao vất vả, những ngày hoạt động chiến đấu trong điều kiện
trang bị tiếp tế còn đơn sơ, thiếu thốn.
Mình đi, có nhớ
những ngày
Mưa nguồn suối lũ,
những mây cùng mù
Mình về có nhớ
chiến khu
Miếng cơm chấm muối,
mối thù nặng vai?
Hình ảnh thơ giàu sức gợi. “Mưa nguồn suối lũ” là
chi tiết tả thực về thiên nhiên khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc; “miếng
cơm chấm muối” là phản ánh cảnh
sinh hoạt kham khổ, khó khăn trong buổi đầu của cuộc kháng chiến. Điều
này từng thấy trong Bình Ngô đại cáo
của Nguyễn Trãi: “Khi Linh Sơn lương
hết mấy tuần/ Khi Khôi Huyện quân không một đội...”. Và cách nói “mối
thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng
trên vai dân tộc ta.
Lại có những câu hỏi gợi cảm giác cô đơn lòng người ở
lại khi chia tay:
Mình về, rừng núi
nhớ ai
Trám bùi để rụng,
măng mai để già
“Rừng núi, trám bùi, măng mai” được nhân hóa cùng với hình ảnh “trám
rụng – măng già” không ai thu hái gợi nhiều bơ vơ, man mác buồn thương.
Tác giả mượn
cái thừa để nói cái thiếu vắng nhằm biểu đạt kín đáo, sâu sắc cái tình của
Việt Bắc với cách mạng, với cán bộ về xuôi
làm cho nỗi nhớ như thắt vào lòng kẻ ở lại.
Vẫn tiếp tục là những câu hỏi tu
từ gợi nhớ:
Mình đi, có nhớ
những nhà
Hắt hiu lau xám,
đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi
non
Nhớ khi kháng Nhật,
thuở còn Việt Minh
Tố Hữu sử dụng hình ảnh tượng
trưng, tương phản “lau xám/ lòng son”
để ngợi ca đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó thiếu thốn nhưng vẫn son sắt thủy
chung với CM, vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng
son” của người cán bộ chiến sĩ: xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở
còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm lo giữ
gìn sự nghiệp cách mạng.
|
P/tích 2 dòng cuối
|
Sau cùng, đoạn thơ còn gợi nhớ về Việt Bắc – chiếc nôi của cách mạng,
quê hương cách mạng.
Mình đi, mình có
nhớ mình
Tân Trào, Hồng
Thái, mái đình cây đa
Những từ chỉ thời gian: khi… thuở … những địa danh, hình ảnh
đã thành lịch sử gợi cảm xúc thiêng liêng: Tân Trào, Hồng Thái – mái đình, cây đa… giờ trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng người đi
kẻ ở. Đằng sau đó có lời nhắn nhủ về nghĩa tình thủy chung, đề cao
tình cảm thủy chung, hướng về cội nguồn:
“Mười lăm năm ấy ai quên/ Quê hương cách mạng
dựng nên cộng hòa”.
|
Nhận xét chung
|
Có thể coi
đoạn thơ trên là nỗi thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ
tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm,
mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng
chiến. tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng
định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt
Bắc. Đoạn
thơ là bằng chứng khẳng định sức mạnh của thơ trữ tình chính trị qua tài thơ
Tố Hữu. Nó có tác dụng: khơi gợi tình cảm cội nguồn – nghĩa tình thủy chung.
Về nghệ thuật, nổi bật trong đoạn thơ
là khúc hát ân tình thiết tha, xúc động của người Việt Bắc dành cho người
cán bộ kháng chiến sắp lúc về xuôi. Điệp khúc: Mình đi, có nhớ… Mình về có nhớ… là những câu hỏi tu từ là tiếng
lòng tha thiết cất lên không chỉ là nhắn nhủ mà còn là hoài niệm, gợi nhớ.
Giọng điệu tha thiết, ngọt ngào/ tiêu biểu cho giọng điệu thơ Tố Hữu những
tình cảm cách mạng được cất lên thật trữ tình, dễ đi vào lòng người.
|
Kết bài
|
Tóm
lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống
Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng
chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung
truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình
cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng
và kháng chiến.
Về hình thức, bài thơ đậm đà tính
dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình –
ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở,
người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao
biến động của cuộc sống, bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng vẫn rung cảm
lòng người.
|
ĐỀ 3
Đề bài
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng
lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng
bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau
chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
|
Mở bài
|
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca
VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện
chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh
thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ
thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối
với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật
đậm đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ thể
hiện sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến” với bao lưu luyến nhớ thương. Nỗi nhớ ấy được
cất lên thật cảm động:
“ dẫn chứng thơ 12 dòng thơ”
|
HCST
|
Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc,
là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt
Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng
tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc
(1946-1954).
|
GT
chung
|
Sau khi khẳng định tấm lòng
trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ niệm. Đoạn thơ
trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc toàn bài, nỗi nhớ trào dâng được
thể hiện sâu sắc và cảm động về tình
cảm của người cán bộ kháng chiến đối với đất và người Việt Bắc. Hình
ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi
với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, c/sống sinh hoạt, kỉ
niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.
|
PT sáu dòng đầu
|
Trước hết là nhớ cảnh Việt
Bắc thanh bình:
Nhớ gì
như nhớ người yêu
Trăng lên
đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng
bản khói cùng sương
Sớm khuya
bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng
rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông
Đáy, suối Lê vơi đầy.
Hình ảnh diễn đạt trữ
tình, ý nhị, sâu sắc “như nhớ người yêu”
thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Với cách so sánh mới lạ sáng tạo
này đã cho người đọc thấy hết được tình cảm của người ra đi, nhớ Việt Bắc như
nỗi nhớ trong tình yêu: thường trực, sâu sắc, mãnh liệt.
Nỗi nhớ được thể hiện ở nhiều tầng bậc, hiện hữu cùng bước đi thời
gian: trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya, trải ra với các không gian:
bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng
nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê… gợi những nét nhớ nhung
tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt. Chữ “nhớ từng” là cách điểm lại một cách tỉ
mỉ, không bỏ sót chi tiết nào, hình ảnh nào… Bức tranh Việt Bắc hiện ra qua
hoài niệm khi thì mơ màng, vời vợi khi lại rõ nét với đường nét, màu sắc, ánh
sáng. Mỗi cảnh là một nét nhớ, nét thương về con người Việt Bắc.
|
P/tích 6 dòng thơ cuối
|
Chưa hết, nỗi nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa
tiếp tục được tái hiện:
Ta đi ta
nhớ những ngày
Mình đây
ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương
nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm
sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đại từ “mình-ta” đan xen kết
hợp với từ chỉ vị trí “đây - đó”
nhằm thể hiện sự gắn bó, kề vai sát cánh bên nhau… cùng với thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” đã khái quát những
gian khổ, vất vả để nhấn mạnh sự đồng cam cộng khổ. Tuy thiếu thốn, gian khổ
nhưng người Việt Bắc hết sức tình nghĩa chan hòa. Hình ảnh tượng trưng:
"Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa,
chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối
tình cảm "chia ngọt sẻ bùi"
giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng
trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách
mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
|
Nhận xét
|
Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong
hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên,
núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm
về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa nghĩa tình. Giọng thơ tâm tình,
ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”,
điệp ngữ: nhớ gì… nhớ từng… nhớ sao…nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ
lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị
mà giàu sức gợi cảm… Chuyện nghĩa tình cách mạng, chuyện kháng chiến đến với
người đọc bằng tiếng nói của tình yêu. Đọan thơ tiêu biểu cho phong cách thơ
Tố Hữu: trữ tình-chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và đậm đà tính dân
tộc.
|
Kết bài
|
Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng
chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những
người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ
chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là
ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến.
Về hình thức, bài thơ đậm đà tính
dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình –
ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở,
người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao
biến động của cuộc sống, bài thơ vẫn rung cảm lòng người.
|
ĐỀ 4
Đề bài
|
Phân tích
bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về mình có nhớ
ta
Ta về ta nhớ những
hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ngày xuân
mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái
măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
|
Mở bài
|
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca
VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện
chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh
thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong
đó bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh
sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người
kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình
thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất
là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa trong năm:
“ viết lại 10 dòng thơ”
|
HCST
|
Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc,
là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt
Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng
tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc
(1946-1954).
|
GT
chung
|
Trong
nền thơ ca và văn học VN, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít như khung cảnh
"Trông bốn bề" của
"Chinh phụ ngâm" (Đoàn Thị Điểm), đoạn " Buồn trông" trong "Kiều ở Lầu Ngưng Bích" (Nguyễn
Du), hay trong Truyện Kiều cũng có câu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày
ngắn đông đà sang xuân”, hoặc ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của
con hổ trong "Nhớ rừng"
(Thế Lữ). Thế nhưng, trong VB, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và
sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông - Xuân - Hạ - Thu... Đoạn thơ gồm mười dòng lục
bát đã ghi lại cảnh và người ở Việt Bắc. Nhà phê bình văn
học Hoài Thanh từng nhận xét: “Những
câu thơ viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể so sánh với bất kì đoạn thơ
nào viết về thiên nhiên trong văn học cổ điển”.
|
Hai dòng đầu
|
Mở đầu đoạn thơ là câu lục bát giới thiệu,
mang cảm xúc chung cho toàn đoạn:
Ta về mình có nhớ
ta
Ta về ta nhớ những
hoa cùng người
Ta là người
ra đi và mình là người ở lại. Và
câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” là cái cớ để bày tỏ tấm lòng của người
ra về. Người ra về lòng vẫn nhớ, nhớ “hoa và người”. “Hoa ” là thiên nhiên đẹp tươi sáng
và “người” là con người Việt Bắc. Thiên
nhiên hòa điệu với con người, trở thành hai bộ phận không thể tách rời nhau. Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ đẹp cho
nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp.
|
Cảnh mùa đông
|
Tiếp theo, tám
dòng lục bát còn lại là bức tranh tứ
bình về thiên nhiên và con người nơi đây. Nhà thơ dùng dòng lục để miêu
tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên thiên với
những nét đẹp riêng biệt; Còn dòng bát dùng cho thể hiện hình ảnh con người
Việt Bắc. Chỉ riêng đoạn thơ này, ta thấy
thấm đậm tính dân gian.
Đầu tiên là
bức tả cảnh, khơi gợi tình cảm yêu mến về mùa đông Việt Bắc :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Tại sao lại là
mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn
nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến.
Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo chân
cầu sông Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc cũng vào mùa đông. Sự
kiện này, đến tận bây giờ vẫn còn chứng minh bởi một khúc hát quen thuộc của
Lưu Trong Lưu trong bài “Một
mùa đông”:
“Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn tôi mà không nói
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng vô cùng
Trời hết một mùa đông
Không
một lần đã nói…”.
Bức tranh mùa đông Việt Bắc được miêu tả
bằng màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Giữa màu xanh biếc đó là màu đỏ rực
của hoa chuối như những bó đuốc thắp lên sáng rực và cả màu vàng của nắng.
Chính vì thế, mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo mà có phần ấm áp, tuôn trào
sức sống. Điều này còn được biểu hiện qua hình ảnh con người lên núi lao động
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. . Đồng bào VB lúc đi rừng, làm rẫy, làm
nương đều gài dao ở thắt lưng. Trên tầm cao của núi đèo, ánh nắng mặt trời
chiếu vào những con dao ấy tạo nên sự phản quang rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một
câu thơ thôi nhưng ta có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ hào hùng của con
người lao động làm chủ thiên nhiên.
|
Cảnh mùa xuân
Cảnh mùa hè
|
Tiếp theo
dòng hồi nhớ là bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc :
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón
chuốt từng sợi giang”
Thời gian
được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo
sự vận động, sinh sôi nảy nở. Không
gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi là màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối
đỏ, giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng
dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng người đọc một
cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Màu trắng của hoa mơ gợi cái thanh thoát, đem
lại cho lòng người sự nhẹ nhàng, êm dịu. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một
rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
" Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác
về ... Im lặng, con chim hót
Thánh
thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
Trong Truyện Kiều, ta cũng bắt gặp
hình ảnh tương tự:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa”
Mùa xuân
được miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân của Việt Bắc. Và gắn
với khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh người lao động rất đẹp :
“Nhớ
người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Chữ “chuốt” là trau chuốt, làm bóng lên,
đẹp lên. Chữ “từng” đã gợi tả
được đức tính cần mẫn, tỉ mĩ và chịu khó. Có khéo tay mới chuốt từng sợi
giang mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, vật phẩm đặc trưng
của người VB. Con người cần cù, tài hoa ấy thật đáng yêu, đáng nhớ.
Thế rồi, khoảnh
khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, nhường
chỗ cho mùa hè đến :
“Ve kêu rừng
phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái
măng một mình”.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc cả thị giác lẫn
thính giác. Mùa hè được cảm nhận bằng âm thanh quen thuộc “ve kêu” và bằng hình ảnh rất riêng của
núi rừng Việt Bắc "rừng phách đổ vàng". Phách là một loại cây thân gỗ, nở hoa vàng vào đầu mùa hè.
Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì có thêm bóng
dáng của một cô sơn nữ “hái măng
một mình”. Đọc tới đây, ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong bài
thơ “Cô hái mơ” của nhà thơ đồng quê Nguyễn Bính:
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng
núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”.
Từ “hái”
phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái VB. Cảnh thiên
nhiên tuyệt mỹ giờ lại khắc thêm vào hình ảnh người thiếu nữ trẻ trung, xinh
tươi lạc quan làm việc lại càng có hồn, có sức sống. Rõ ràng thiên nhiên và
con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
|
Cảnh mùa
thu
|
Kết
thúc đoạn thơ là cảnh rừng đêm trăng
thu huyền diệu và thơ mộng:
“Rừng thu trăng rọi
hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân
tình thủy chung”
Câu thơ mở ra một không gian
tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu. Nguyễn
Khuyến khi miêu tả cảnh thu cũng không quên miêu tả ánh trăng mùa thu: “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… Hồ
Chí Minh cũng thế: “Tiếng suối trong
như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Tuy nhiên, ánh trăng
ở đây không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn gắn với niềm xúc động của những
con người từng trải qua bao năm tháng khốc liệt, gian khổ của chiến tranh.
Trong khu rừng thấm đẫm ánh trăng vàng, bỗng ngân nga lên tiếng hát ân tình
làm rạo rực lòng người. Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ
chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc, cũng chính là tấm lòng của người về
xuôi với chiến khu. Thế nên ánh trăng dường như cũng ngời sáng hơn và tiếng
hát cũng du dương và vang xa hơn.
|
Nhận xét
|
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có
giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Trong nỗi nhớ của người ra đi kỉ
niệm về VB thật sâu đậm, đáng yêu và đáng nhớ. Qua nỗi nhớ, niềm trân trọng
tha thiết của nhà thơ, cảnh và người VB hiện lên thật gần gũi, chân thực mà
thơ mộng, trữ tình. Thông qua tình cảm riêng của mình, Tố Hữu đã nói lên tình
cảm của cả một thế hệ với quê hương đất nước, đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ
chung ân tình của nhân dân ta. Đoạn thơ ngắn 10 dòng trên mang âm điệu ngọt
ngào, từ ngữ trong sáng giản dị giàu sức gợi, in đậm phong cách thơ trữ tình
- chính trị của Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với Việt Bắc.
|
Kết bài
|
Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng
chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những
người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ
chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là
ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến.
Về hình thức, bài thơ đậm đà tính
dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình –
ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở,
người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao
biến động của cuộc sống, bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng vẫn rung cảm
lòng người.
|
ĐỀ 5
Đề bài
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ
nửa,chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng
khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mỏ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.
|
Mở bài
|
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca
VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện
chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh
thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ
thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối
với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật
đậm đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ ngợi
ca những tình cảm giản dị, nghĩa tình thủy chung sâu sắc của con người trong
những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ thể hiện qua đoạn thơ sau:
“ dẫn chứng thơ 12 dòng thơ”
|
HCST
|
Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc,
là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt
Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng
tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc
(1946-1954).
|
GT
chung
|
Sau khi khẳng định tấm lòng
trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ niệm. Đoạn thơ
trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc toàn bài, nỗi nhớ trào dâng trong lòng người ra đi được thể hiện sâu sắc và cảm
động giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ,
tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, c/sống
sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.
|
Hai hai dòng đầu
|
Hai
câu đầu là hình ảnh chân thực về đời
sống kháng chiến gian nan, cực khổ:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm
sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Hình ảnh tượng trưng: "Chia
củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng
từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng"
diễn tả được mối tình cảm "chia
ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao
tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn",
"bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách
mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
|
P/tích 2 dòng thơ tiếp
|
Hai câu tiếp theo là hình
ảnh người mẹ, kết tinh hình ảnh con người và cuộc sống kháng chiến:
Nhớ người
mẹ nắng cháy lưng.
Địu con
lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Hình ảnh chọn lọc: “Người mẹ
nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần
cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang cán
bộ cách mạng. Đó còn là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc
sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi. Hình ảnh
mẹ VB rất giống như hình ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”:
“Mẹ thương akay, mẹ
thương bộ đội” (Nguyễn Khoa Điềm).
|
Nhớ về VB là nhớ về cuộc sống,
sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng
khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao
ngày tháng cơ quan
Gian nan
đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao
tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm
nện cối đều đều suối xa...
Điệp từ “nhớ” điệp trùng thể
hiện nỗi nhớ dạt dào. Cùng hàng loạt những hình ảnh, âm thanh thân quen: tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, tiếng suối xa, tiếng học i-tờ, ca vang núi đèo,
đồng khuya đuốc sáng… âm thanh thiên nhiên gợi hồn núi rừng Việt Bắc - âm
thanh cuộc sống bình dị, ấm áp mà vui tươi. Đoạn thơ đối ý, nêu bật tinh thần
lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian
khổ, khó khăn :
"Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"
VB tràn
đầy nỗi nhớ của người kh/chiến về xuôi với quê hương CM trong 15 năm “thiết tha mặn nồng” tình nghĩa. Bao
nhiêu chữ “nhớ” vang lên trong bài
thơ là bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi với người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ
núi rừng, nhớ mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, nhớ người mẹ, nhớ lớp học,
nhớ những ngày gian khổ có nhau,… Sau đoạn này là nhớ cảnh và người VB, nhớ
những đêm quân đi điệp điệp trùng trùng,… tất cả đều tha thiết và sâu
lắng.
|
|
Nhận xét
|
Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và
hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con
người, cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà
chan chứa nghĩa tình. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ gì… nhớ từng… nhớ sao…nhớ người… trùng điệp, cùng
cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm, những
hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… Chuyện nghĩa tình cách mạng,
chuyện kháng chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình yêu. Đọan thơ
tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình - chính trị, giọng điệu tâm
tình, ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc.
|
Kết bài
|
Tóm
lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống
Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng
chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung
truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình
cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng
và kháng chiến.
Về hình thức, bài thơ đậm đà tính
dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình –
ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở,
người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao
biến động của cuộc sống, bài thơ vẫn rung cảm lòng người.
|
ĐỀ 6
Đề bài
|
Phân tích
bức tranh Việt Bắc ra trận của Tố Hữu: “Những
đường Việt Bắc của ta.......Vui lên VB đèo De, núi Hồng”
|
Mở bài
|
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca
VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện
chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh
thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ
thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối
với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật
đậm đà tính dân tộc. Nổi bật nhất là đoạn thơ hồi
ức về bức tranh Việt Bắc ra trận:
“Những đường Việt Bắc của ta
…………………………..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
|
HCST
|
Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc,
là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt
Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng
tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc
(1946-1954).
|
GT
chung
|
VB của Tố Hữu
không chỉ là khúc ca ân tình, mà còn là bản tổng kết bằng thơ mười lăm năm
CM. Bên cạnh những đoạn thơ trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những khúc ca tràn đầy khí thế chiến đấu và chiến thắng của
quân dân ta mà tiêu biểu là bức tranh VB ra trận. Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình,
bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi
rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm
thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng
thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ
tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, chỉ vài nét
phác hoạ khung cảnh hùng tráng, Tố Hữu đã cho thấy hào khí ngất trời của cả
một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do. Họ vừa mới xuất
quân mà như đã cầm chắc chiến thắng trong tay.
|
Hai dòng đầu
|
Hai câu đầu đoạn là nét tả
khái quát. Tác giả nói về những đường
Việt Bắc ra trận, những nẻo đường hành quân, những nẻo đường chiến dịch
nhưng là để nói lên khí thế dũng mãnh của người ra trận :
Những đường Việt
Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như
là đất rung
Những nhịp điệu “đêm đêm”, những điệp thanh “rầm rập” cùng với
biện pháp so sánh “như là đất rung” đã cho ta thấy mặt đất như đang
chuyển động dưới bàn chân những người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ
khắp các ngả đường của căn cứ địa CM. Đây là hình ảnh hào hùng, là âm
vang của cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa bốn nghìn năm của
dân tộc mà không thế lực nào có thể ngăn cản được.
|
Hai dòng 3-4
|
Chưa hết,
hình ảnh người lính ra trận hiện lên vừa hiện thực, vừa hào hùng và lãng mạn:
Quân đi điệp điệp
trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hiện thực ở chi tiết những đoàn quân
nối tiếp nhau, ở những chiếc mũ nan giản dị. Hào hùng ở sự trùng điệp được
nhân lên “điệp điệp trùng trùng”thật
đông đảo, người người lớp lớp như sóng cuộn và lãng mạn ở hình ảnh “ánh sao đầu súng”, ánh sao đêm phản
chiếu vào nòng súng thép, ánh sao của bầu trời VB, ánh sao của lý tưởng chiến
đấu. Đây là tứ thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp
anh bộ đội cụ Hồ.
|
Hai dòng 5-6
|
Trên những con đường VB trong
đêm ra quân, ta không chỉ bắt gặp hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ bước
đi hùng tráng trong đêm mà còn có cả hình ảnh những đoàn dân công ra trận đi
tải lương, tải đạn phục vụ tiền tuyến:
Dân công đỏ đuốc
từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Trong chiến tranh, nhân dân ta
lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Bởi thế nên giữa đêm VB ra quân, cạnh
những đoàn quân đi, ta còn thấy hình ảnh "dân công đỏ đuốc từng đoàn". Họ cũng như những người lính,
hăng hái ra trận, hăng hái lên đường. Giữa cái cảnh hào hùng ấy, hình ảnh
"muôn tàn lửa bay "gợi
cho ta một vẻ đẹp rất lãng mạn. Những tàn lửa bay ra từ những bó đuốc
rơi xuống mặt đất thực sự đã làm cho con đường ra trận thêm lung linh, huyền
ảo. Ta có cảm giác con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực rỡ.
Không chỉ sử dụng các hình ảnh, các từ láy, cách nói cường điệu trong câu thơ "bước chân nát đá” đã diễn tả sức mạnh của lòng quyết tâm từ hàng vạn con người. Họ sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi đến chiến thắng. Đây là một sự sáng tạo của Tố Hữu khi ông đã lấy ý tưởng từ câu ca dao:
“Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng ".
Điều đó đã tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ nhằm
ca ngợi sức mạnh của con người Việt Nam chiến đấu và chiến thắng. Ý thơ mang
tầm vóc sử thi.
|
Hai dòng 7-8
|
Hai câu thơ cuối của đoạn thơ
là hình ảnh của những đoàn xe cơ giới, xe tăng, xe tải chở lính, chở lương
thực vũ khí ào ào ra trận:
"Nghìn đêm thăm thẳm
sương dày
Đèn pha bật sáng
như ngày mai lên"
Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn. Bỏ đằng sau cái
nghĩa thực của cuộc hành quân xuyên rừng vượt núi, xuyên qua đêm tối sương
dày thăm thẳm thì nghĩa bóng về hình ảnh ngày mai lại thật lạc quan phơi phới
"đèn pha bật sáng như ngày mai lên".
Nghệ thuật so sánh lại được nhà thơ sử dụng thật thành công. Hình ảnh đèn pha
bật sáng được ví như mặt trời mọc "như
ngày mai lên ". Như vậy, ngày mai đến từ trong đêm thăm thẳm nhờ có
đèn pha bật sáng, nhờ có sức mạnh của con người cộng với lý tương cao
đẹp : chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước. Câu thơ vừa thể hiện được cái
dư vị của cảnh hành quân hoành tráng, đầy hào khí chiến đấu, chiến thắng, vừa
thể hiện một niềm tin, lạc quan phơi phới: tin vào tương lai tươi sáng của
dân tộc.
|
Bốn dòng cuối
|
Và niềm tin ấy đã được khẳng định. Những câu còn lại là
niềm vui của tác giả, của nhân dân Việt Bắc trước tin thắng trận trên khắp
mọi miền đất nước dồn dập bay về:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Hàng loạt các địa danh được liệt kê: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê,... trước đó là: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng,…
mỗi địa danh ghi dấu một chiến công của dân tộc. Cách gọi tên các địa danh đã
diễn tả được tình yêu núi sông và niềm tự hào trào dâng trong lòng tác giả
khi nghĩ về những chiến công oanh liệt trên khắp mọi miền đất nước. Cùng với
những địa danh ấy là điệp từ “vui”
được lặp nhiều lần kèm với các giới từ “tin
vui chiến thắng…vui về…vui từ…vui lên…” gợi tả chiến thắng giòn giã, dồn
dập, như tiếng reo mừng cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí
Nam.
|
Nhận xét
|
Như vậy, với bút pháp vừa hiện thực,
vừa lãng mạn, chỉ với 12 dòng lục bát, Tố Hữu đã dựng nên bức tranh VB ra
trận thật đẹp. Bức tranh không chỉ làm
sống dậy những tháng năm hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
trên căn cứ địa thần thánh, mà còn mang đến cho ta niềm tin yêu quê hương CM
anh hùng. Có thể gọi đây là bức tranh thành công về Việt Bắc ra quân. Đoạn thơ 12 câu diễn tả
khí thế hào hùng sục sôi của Việt Bắc kháng chiến. Qua đó, đoạn thơ bộc lộ
niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dan tộc.
Đoạn thơ có âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng
đại, là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
|
Kết bài
|
Tóm lại, “VB” đã tái
hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó
thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước.
Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình
cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo
nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
Về hình thức, bài thơ đậm đà tính
dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình –
ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở,
người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao
biến động của cuộc sống, bài thơ vẫn rung cảm lòng người.
|