Lớp cha trước lớp
con sau
Đã thành đồng chí chung câu
quân hành
(Tố Hữu)
Trải qua ba mươi năm chiến tranh vệ quốc vĩ
đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích hào hùng : đánh thắng thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm nên huyền thoại, đó
là anh bộ đội Cụ Hồ.
Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện
đại. Trong số những bài thơ viết về đề tài này phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu và Bài
thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai
giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng ta cảm nhận đầy đủ hơn
về hình ảnh người lính.
Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập
ngũ, là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm 1948 bài thơ Đồng chí ra đời khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật
sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường
sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính
sáng tác năm 1969.
Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường
chinh của dân tộc. Hai thi phẩm mà chúng ta đề cập tới là hai trong những tác
phẩm tiêu biểu của mỗi thời kì văn học. Hay sự thể hiện hình tượng anh bộ đội
Cụ Hồ. Người lính trong hai bài thơ này là những hình ảnh tiêu biểu của thơ
Việt Nam 1945 - 1975 sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung
của chúng ta là, người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ
nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mô tả chân thực, giản dị mà cao đẹp. Khác
với khuynh hướng lãng mạn anh hùng mang dáng dấp tráng sĩ trượng phu của thơ ca
đầu chống Pháp, cảm hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hướng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và chất
thơ trong cái "đời thực" của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái
đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là cái đẹp trong tình đồng chí, đồng
đội, thắm thiết, sâu nặng :
Quê
hương anh nước mặn đồng chua
làng
tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi
với anh đôi người xa lạ
Tự
phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng
bên súng đầu sát bên đầu
Đêm
rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng
chí !
Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp
và cuối cùng dồn lại ở một từ : Đồng chí.
Một sự lí giải tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân từ nghèo
khó, là cùng chung mục đích, lí tưởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỉ...) Một chữ chung
khiến những người vốn xa lạ thành đôi tri
kỉ và cao hơn là thành đồng chí.
Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở
anh bộ đội Cụ Hồ một tình cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - tình đồng chí. Tình
cảm này không phải chỉ vì sự cảm thông sâu xa tâm tư, nỗi lòng của nhau mà là
cái chung lớn lao. Là những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời chiến đấu. Tất cả
diễn đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thương, trìu mến nhất cũng trở
thành sáo rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những người lính,
người đồng đội. Vì thế đoạn thơ thứ hai có 10 dòng vẫn theo từng cặp tương ứng
để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời : "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".
Tình đồng chí giữa những người lính vệ quốc, nói như Chính Hữu :
Anh
với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt
run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo
anh rách vai
Quần
tôi có vài mảnh vá
Miệng
cười buốt giá
Chân
không giày...
Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi
dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại. Tình của những dân ấp, dân lân, "Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay
vốn quen làm - Tập khiên, tập súng, tập
mác, tập cờ mắt chưa từng ngó" (Văn
tế nghĩa sỹ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu). Những con người ấy vốn dĩ không
đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhưng cuộc chiến
đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng mạn. Bức
tượng đài cuối bài thơ là sự phát triển tất yếu từ tình đồng chí :
Đêm
nay rừng hoang sương muối
Đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu
súng trăng treo
Đó là cuộc đời thực của những người lính nông dân nghèo khổ nơi : nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, áo
rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày... được tình cảm cách mạng cao
đẹp tạc thành dáng hình mới.
Nếu Đồng chí là hình ảnh của
anh lính nông dân chưa biết chữ thời kì đầu kháng Pháp thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một
hóa thân khác. Họ là những thanh niên học sinh đã qua 20 năm dưới mái trường
Miền Bắc đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Người chiến sĩ
trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
không mang đặc điểm như đã nói ở trên tuy vẫn cùng bốn phương hội tụ, với tất
cả sự trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những người chiến sĩ lái xe, những
chiếc xe từ trong bom đạn : đã về đây họp thành tiểu đội : Không có kính rồi xe không có đèn, không có
mui xe... Bởi vì : Bom giật bom rung
kính vỡ đi rồi. Nên phải chịu bao gian khổ : gió, bụi, mưa xối xả song :
Xe
vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ
cần trong xe có một trái tim
Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên
chung là ta, chúng ta. Tất cả đều là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp
nguy hiểm. Không có kính không phải vì xe không có kính / bom giật bom rung kính
vỡ đi rồi. Nhưng : Ung dung buồng lái
ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng......../Bụi phun tóc trắng... cười ha ha
/ Mưa tuôn... mau thôi / Gặp bè bạn... kính vỡ rồi / Họ không cần nhiều tìm
hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ từ
trong bom rơi... họp thành tiểu đội.
Nếu hình ảnh người chiến sĩ trong bài Đồng
chí là một bức tượng đài : Đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo thì người lính trong thơ Phạm
Tiến Duật là một tổ hợp của những khuôn mặt trai trẻ, hồn nhiên. Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của
Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong các tiêu điểm của hình tượng người lính -
Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30 năm chiến đấu gian khổ đến ngày toàn
thắng 1975.