BÀI THƠ
“ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
ĐỀ 1
Đề bài
|
Phân tích
chín dòng thơ đầu trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
|
Mở bài
|
Đề tài Đất Nước bao trùm trong
thơ ca VN giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ trong dòng chảy của văn học
Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc đáo và xúc
động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong số đó,
Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà bài thơ Đất
Nước là điển hình xuất sắc. Bài thơ là sự cảm
nhận, phát hiện Đất Nước trong một
cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn cả bề rộng của không gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn hóa.
Đoạn trích sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất
thích hợp với việc thể hiện tư tưởng “Đất
Nước nhân dân” (ĐN của dân, do nhân dân làm ra). Trong đoạn trích nổi bật
nhất là hai mươi dòng thơ tiếp theo (từ câu 21 đến câu 29) của đoạn trích.
|
HCST
|
Đoạn trích “Đất Nước”
thuộc phần đầu chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (hoàn thành ở
chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974) viết về sự thức của thế hệ trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh
hòa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ.
“ĐN” là bài thơ
trữ tình - chính luận. Bằng giọng điệu tâm tình, bằng những câu thơ co dũi
rất tự nhiên, nhân vật “anh” đã tâm
sự với nhân vật “em” những điều về
ĐN. Nó vô cùng sâu sắc, thấm thía. Trong đó, đoạn một là sự cảm nhận về Đất
Nước trên phương diện văn hoá và tác giả đã trả lời cho câu hỏi “ĐN bắt đầu từ đâu?”.
|
Phân tích
|
Trái với logic mà chúng ta thường nghĩ, NKĐ nói về
nguồn gốc của ĐN rất lạ. Nó không cụ thể như nhà thơ Chế Lan Viên: “Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm”.
Nó cũng không đánh dấu bằng các mốc thời đại như Nguyễn Trãi: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền
độc lập”, mà nhà thơ nhìn vào thời điểm hôm nay, nhìn vào những phong tục
tập quán, nhìn những sự vật quen thuộc đang hiện diện hôm nay để bắc một cầu
vòng huyền diệu lung linh về quá khứ để truy tìm nguồn gốc của ĐN.
Nguyễn Khoa Điềm, trong phần mở đầu đoạn trích, đã chọn cách nói và
các hình ảnh rất tự nhiên và bình dị:
Khi ta lớn lên Đất
Nước đã có rồi
Đất Nước có trong
những cái ngày xửa ngày xưa... mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng
trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên
khi dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc
Đại từ xưng hô “ta” gợi cho người đọc cảm nhận: “ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi
chúng ta, vừa là những người dân đất Việt. Khi mỗi người lớn lên, Đất Nước đã
có, tuy chưa đủ hiểu biết để hiểu những khái niệm trừu tượng như cương vực,
lãnh thổ, nhưng Đất Nước là cái gì rất thân thương và gần gũi.
Tiếp đó, tác giả đã
cụ thể hơn bằng cách nêu ra hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng để
trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ
bao giờ?”. Từ khi nào có những câu chuyện cổ tích “ngày xửa, ngày xưa” mà mẹ thường kể thì ĐN có từ ngày đó. Nhưng
có ai biết được “ngày xửa, ngày xưa”
là từ khi nào và đã có biết bao thế hệ các bà mẹ đã kể chuyện cho con nghe.
Điều đó nhằm khẳng định ĐN có từ lâu đời.
Chưa hết, Đất
Nước có từ “miếng trầu dung dị của bà ăn”. Từ ngày tháng năm nào vua Hùng ban
tục lệ ăn trầu, ấy là ngày khai sinh ra Đất Nước. Hình ảnh miếng trầu mở ra
cả một không gian văn hóa Việt, gợi nhớ “Sự
tích trầu cau”. Đồng thời miếng trầu còn là biểu hiện cho vẻ đẹp của
thuần phong mĩ tục, cho bản sắc riêng của một dân tộc trọng tình nghĩa hơn
của cải vật chất:
“Miếng trầu là đầu câu chuyện”
“Trầu này trầu nghĩa trầu tình
Cho loan lấy phượng, cho mình lấy nhau”.
Sau đó “Đất Nước lớn lên khi dân mình trồng tre
đánh giặc”. Đọc câu thơ ta lại nhớ đến cậu bé làng Gióng vươn vai lớn
lên thành tráng sĩ "Nhổ bụi tre
ngà đuổi giặc Ân" (Tố Hữu). Truyền thuyết xa xưa ấy thể hiện trọn
vẹn tinh thần bất khuất, khát vọng tự do của một dân tộc và sự trưởng thành
của một dân tộc biết cầm vũ khí để đấu tranh giành độc lập tự do.
Rồi Đất Nước định
hình với những gì rất quen thuộc:
Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Trước hết là ở phong tục tập quán “búi tóc sau đầu của mẹ” gắn với cuộc sống nhọc nhằn vất vả, với
ứng xử nghĩa tình “gừng cay muối mặn”
của cha và mẹ. “Gừng cay muối mặn”
đâu chỉ là gia vị trong đời sống hàng ngày của người VN mà còn là biểu tượng
cho tình nghĩa vợ chồng yêu thương gắn bó, thủy chung, bền chặt:
“Tay nâng đĩa muối chén gừng
Gừng
cay muối mặn xin đừng quên nhau”.
Tiếp đó, Đất Nước
phát triển với ngôn ngữ ‘cái kèo cái
cột thành tên”, với hạt gạo “một
nắng hai sương” của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước trong cả quá trình
nhọc nhằn, gian khổ “xay giã giần sàng” đau đớn. Đó là nền tảng để
ĐN bắt đầu và lớn lên.
Như
vậy, theo NKĐ, Đất Nước có từ khi chúng ta có nền văn hóa. Đất Nước bắt đầu
từ văn hóa, từ văn học, từ phong tục tập quán,… Lời thơ tuy chỉ gợi, chỉ vẽ
một vài nét thoáng nhẹ, mơ hồ xa xôi nhưng đậm đà ý vị. Đó là sự cảm nhận về
Đất Nước rất riêng của thế hệ trẻ chống Mỹ. Đất Nước hiện ra không xa lạ mà
gần gũi và thân thiết biết bao. Giọng thơ thủ thỉ như lời tâm sự đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Đất
Nước.
|
Mở rộng
|
Suốt chín câu thơ, chúng ta thấy ấn
tượng nổi bật nhất là hình tượng người phụ nữ: người mẹ kể chuyện, người bà ăn trầu, búi tóc của mẹ, ngay cả hành
động “nâng đĩa muối chén gừng” và hành động “xay giã dần sàng” cũng thấp
thoáng hình ảnh người phụ nữ. Hơn đâu hết, nước Việt Nam biểu tượng “Mẹ Việt Nam anh hùng” là chính xác.
|
Nghệ thuật
|
Về nghệ thuật, ở đoạn thơ này, mỗi câu đều bị chi phối bởi chủ đề
Đất Nước và cả khổ thơ đều bị chi phối cho chủ đề Đất Nước. Do đó
đoạn thơ mở đầu cũng có thể được coi là những câu trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ”. Đặc biệt câu
thơ cuối “ĐN có từ ngày đó” đóng
khép đoạn thơ là điệp khúc lặp lại
ý mở đầu: “Khi ta lớn lên Đất
Nước có rồi” khiến ta liên tưởng đến dòng thời gian hun hút mà Đất Nước
hiện diện. Cùng với các trạng từ:
“bắt đầu, lớn lên” tuy không x/định
thời gian cụ thể nhưng cũng đã khẳng
định quá trình hình thành và phát triển lâu đời của Đất Nước. Câu thơ cuối
cũng là câu chuyển tiếp từ đoạn đầu văn hóa sang đoạn thơ tiếp theo cảm nhận
Đất Nước về không gian và thời gian.
|
Nhận xét
|
Nhìn chung, đoạn thơ đầu chín câu với
85 chữ nhưng không hề có một từ ngữ Hán Việt nào, ngôn từ bình dị, cách nói
biểu cảm, thân mật, đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội
nguồn sâu xa của Đất Nước. Cùng với mức độ đậm đặc của các chất liệu được lấy
từ ca dao, cổ tích, từ truyền thuyết,… đã tạo cho đoạn thơ một âm hưởng đầy
quyến rũ và cất lên “tấm lòng sứ điệp”
để ta thêm yêu Đất Nước và tự hào về Đất Nước.
|
Kết bài
|
Tóm lại, đoạn trích “Đất Nước” đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua
những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa
lý, văn hóa,… Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bằng hình thức
biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình-chính trị sâu lắng, tha thiết. Tư
tưởng “Đất Nước của Nhân dân” của
ca dao thần thoại của Nguyễn Khoa Điềm
đã đóng góp thêm một thành công cho thơ về đề tài Đất Nước, làm sâu sắc thêm
nhận thức về nhân dân, về Đất Nước trong thời kì chống Mỹ. Các chất liệu của
văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho
đoạn trích.
|
ĐỀ 2
Đề bài
|
Phân tích
hai mươi dòng thơ tiếp theo trong bài
thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất
là nơi anh đến trường.......Nhớ ngày giỗ Tổ”.
|
Mở bài
|
Đề tài Đất Nước bao trùm trong
thơ ca VN giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ trong dòng chảy của văn học
Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc đáo và xúc
động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong đó, Nguyễn
Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà bài thơ Đất
Nước là điển hình xuất sắc. Bài thơ là sự cảm
nhận, phát hiện Đất Nước trong một
cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn cả bề rộng của không gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn hóa.
Đoạn trích sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất
thích hợp với việc thể hiện tư tưởng “Đất
Nước nhân dân” (ĐN của dân, do nhân dân làm ra). Nổi bật nhất là hai muơi
dòng thơ sau: “Đất là nơi anh
đến trường.......Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
|
HCST
|
Đoạn trích “Đất Nước”
thuộc phần đầu chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (hoàn thành ở
chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974) viết về sự thức của thế hệ trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh
hòa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ, của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời
đại.
“ĐN” là bài thơ
trữ tình - chính luận. Bằng giọng điệu tâm tình, bằng những câu thơ co dũi
rất tự nhiên, nhân vật “anh” đã tâm
sự với nhân vật “em” những điều về
ĐN. Nó vô cùng sâu sắc, thấm thía. Đặc biệt ở khổ thơ thứ hai, Nguyễn Khoa
Điềm đã cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước trong sự thống nhất, hài hoà giữa
các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian đã trả lời một
cách thuyết phục cho câu hỏi “Đất Nước
là gì?”.
|
Phân tích
Những định nghĩa về Đất Nuớc
|
Ở lần định nghĩa thứ nhất cả Đất và Nước đều là không
gian tồn tại rất thân thuộc, rất riêng tư gắn bó của “anh” và “em”:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm...
Ý
thơ quay về với hiện thực, với những hình ảnh cụ thể: nơi anh đến
trường, nơi em tắm, nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn thương nhớ. Đây là không gian riêng tư chỉ hai người
biết, chỉ hai người hay. Dường như Đất Nước này được sinh ra là vì
anh, vì em, vì tình yêu đôi lứa chúng ta, song cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Nét
độc đáo trong lần cảm nhận về Đất Nước là hình ảnh chiếc khăn tương tư, ướt
lệ nhớ nhung những đêm dài thao thức của em lại đậu vào hình hài Đất Nước.
Một điều rất khó thấy khi bàn về ĐN. Ở đây, tác giả đã sử dụng chất liệu của
ca dao rất nhuần nhuyễn: Khăn thương
nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn vắt lên vai/ Khăn thương
nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt. Điều này khiến cho người đọc suy nghĩ về Đất
Nước cứ dâng tràn cảm xúc.
|
Ở lần định
nghĩa thứ hai, từ không gian gần gũi, Đất Nước trở nên xa xôi, mênh mông như
huyền ảo:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
Lấy ý từ những câu dân ca ngọt ngào của xứ Huế,
tác giả đưa người đọc về với không gian Đất Nước thân thương. Những từ “núi bạc”, “biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian gợi ra
Đất Nước mênh mông giàu đẹp. Về lịch sử, Đất Nước được cảm nhận bằng
chiều sâu của “thời gian
đằng đẵng” liên
tục, bền bĩ mà nhân dân đổ máu và mồ hôi dựng nước và giữ nước tạo thành dãy
đất hình chữ S; Về địa lý là chiều rộng “không
gian mênh mông”, ta
gặp “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” trong yêu thương, tự
hào. Từ “đôi ta hò hẹn” để dệt nên cổ tích, ca dao, Đất Nước đã
phát triển thành khái niệm dân mình đoàn tụ trong không gian của ca dao, cổ
tích.
|
|
Ở lần định nghĩa
thứ ba, NKĐ đưa ta trở về với cội nguồn của dân tộc, dòng giống
con người VN:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long
Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng...
Ở đoạn thơ
này những hình tượng quen thuộc trong truyền thuyết như: chim rồng, Lạc Long
Quân và Âu Cơ, bọc trứng
cũng hiện về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hồi tưởng ấy làm bật lên
ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con Lạc, cháu Hồng”, trai tài gái sắc,
Đất Nước ta là đất lành chim về, đất thiêng rồng ở, đồng bào ta là anh em một
nhà. Tất cả làm toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, gắn với lòng biết
ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt. Hai tiếng “đồng bào” thân thương luôn đánh thức
tinh thần đoàn kết hàng ngàn năm của dân tộc.
|
|
Sau khi
định nghĩa về Đất Nước như một lẽ tự nhiên, NKĐ hướng đến ý thức trách nhiệm
của các thế hệ đối với Đất Nước:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Nhà thơ
luôn nhắc nhở mọi người phải nhớ về cội nguồn dân tộc, phải biết gánh trên
vai trọng trách nặng nề mà thiêng liêng về Đất Nước: duy trì giống nòi dân
tộc (Yêu nhau và sinh con đẻ cái)
và nhất là phải truyền lại cội nguồn văn hóa tâm linh dân tộc (Dặn dò con cháu chuyện mai sau). Dù sinh
kế mọi người có thể làm ăn, sinh sống ở bất cứ đâu nhưng đừng quên cúi đầu
nhớ đến ngày giỗ Tổ vào ngày 10.3 âm lịch hằng năm. “Tổ” ở đây là vua Hùng Vương, con trai cả của mẹ Âu Cơ, người có
công dựng nước, cũng là tổ tiên của mỗi gia tộc. Đó chính là truyền thống
uống nước nhớ nguồn, một đạo lí bất di bất dịch của dân tộc.
|
|
Nghệ thuật
|
Về nghệ
thuật, nét độc đáo của đoạn thơ là nhà thơ đã tháo rời hai chữ Đất – Nước, sau đó lắp ghép lại để
hoàn chỉnh một định nghĩa về Đất Nước. Đây là một logic hình thức khó chấp
nhận khi trình bày một vấn đề hệ trọng thiêng liêng. Ấy vậy mà cứ mỗi lần
tháo lắp, Đất Nước lại càng trở nên lung linh, huyền ảo và tác động mạnh đến
tình cảm con người.
|
Nhận xét
|
Nhìn chung, Đất Nước qua cảm nhận của
NKĐ không khô khan trừu tượng mà tươi rói cảm xúc. Vẫn là việc s/dụng những
chất liệu của văn học dân gian với ngôn ngữ tự nhiên, bình dị làm cho đoạn
thơ vừa có tính sáng tạo mới mẻ vừa mang những nét thân thương, gần gũi, vừa
dịnh nghĩa cụ thể làm rõ về Đất Nước gắn liền với đời sống và số phận từng cá
nhân trên mọi phương diện: chiều dài của lịch sử và chiều rộng của địa lí,
chiều sâu của văn hoá và phong tục.
|
Kết bài
|
Tóm lại, đoạn trích “Đất Nước” đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ
của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên
nhiều bình diện: lịch sử, địa lý, văn hóa,… Đóng góp riêng của đoạn trích là
ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của
Nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ
tình-chính trị sâu lắng, tha thiết. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
của ca dao thần thoại của Nguyễn Khoa
Điềm đã đóng góp thêm một thành công cho thơ về đề tài Đất Nước, làm sâu sắc
thêm nhận thức về nhân dân, về Đất Nước trong thời kì chống Mỹ. Các chất liệu
của văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn
cho đoạn trích.
|
ĐỀ 3
Đề bài
|
Phân tích
mười ba dòng thơ tiếp theo trong bài
thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm: “Trong
anh và em hôm nay.......Làm nên Đất Nước muôn đời”.
|
Mở bài
|
Đề tài Đất Nước bao trùm trong
thơ ca VN giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ trong dòng chảy của văn học
Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc đáo và xúc
động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong đó, Nguyễn
Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà bài thơ Đất
Nước là điển hình xuất sắc. Bài thơ là sự cảm
nhận, phát hiện Đất Nước trong một
cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn cả bề rộng của không gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn hóa.
Đoạn trích sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất
thích hợp với việc thể hiện tư tưởng “Đất
Nước nhân dân” (ĐN của dân, do nhân dân làm ra). Nổi bật nhất là mười ba
dòng thơ sau:: “Trong anh và em
hôm nay.......Làm nên Đất Nước muôn đời”.
|
HCST
|
Đoạn trích “Đất Nước”
thuộc phần đầu chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (hoàn thành ở
chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974) viết về sự thức của thế hệ trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh
hòa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ, của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời
đại.
“ĐN” là bài thơ
trữ tình - chính luận. Bằng giọng điệu tâm tình, bằng những câu thơ co dũi rất
tự nhiên, nhân vật “anh” đã tâm sự
với nhân vật “em” những điều về ĐN.
Nó vô cùng sâu sắc, thấm thía. Ấn tượng nhất là ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ nói về ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ
đối với Đất Nước.
|
Phân tích
|
Không chỉ tiếp cận
Đất Nước qua lịch sử, qua địa lý và các mối quan hệ cá nhân-cộng đồng, Nguyễn
Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ
thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm. Hai dòng đầu, nhà thơ phát
hiện chân lý giản dị mà sâu sắc:
Trong
anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.
Giọng thơ tâm tình
với lối xưng hô “anh, em” tha
thiết. Thì ra Đất Nước có trong mỗi cá nhân, Đất Nước kết tinh trong mỗi con
người “trong anh”, “trong em”, trong mỗi chúng ta. Đất Nước
không ở đâu xa lạ, không tồn tại khách thể mà kết tinh, hóa thân trong cuộc
sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà
còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn
hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân. Ý thơ này tương đồng với
ý trong bài thơ Quê hương của Giang Nam:
Xưa yêu quê hương vì có chim có
bướm
Có những
ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu
quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em
tôi.
|
Vẻ đẹp Đất Nước còn
được phát hiện thêm:
Khi hai đứa cầm tay
Đất
Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi
chúng ta cầm tay mọi người
Đất
Nước vẹn tròn to lớn
“Cầm
tay” là một biểu tượng của tình yêu thương thân thiết, của tình đoàn kết
dân tộc. “Khi hai đứa cầm tay” tình
yêu trong anh và em làm cho Đất Nước bỗng “hài hòa nồng thắm” và khi hai ta hòa vào mọi người, cái riêng hòa
vào cái chung cộng đồng thì “Đất Nước
vẹn tròn to lớn”. Như vậy, cá nhân không thể tách rời cộng đồng. Đó là
tinh thần đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng, được nhân đôi
thành một vòng Việt Nam rộng lớn và vĩnh cửu không gì có thể phá vỡ nổi. Rõ
ràng sự gắn bó số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của
thời đại. Trong bài thơ Sao chiến thắng, Chế Lan Viên viết:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta,
như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà
ngọn cỏ con sông”.
|
|
Từ hiện tại, nhà
thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về Đất Nước ở tương lai:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
“Tháng ngày mơ mộng” là tương lai đẹp và hạnh phúc, là những
ngày thanh bình và phát triển của Đất Nước. Tác giả thả giấc mơ về phía tương
lai, gởi gắm niềm tin vào thế hệ măng non của Đất Nước sẽ làm cho Đất Nước đi
lên có thể sánh vai cường quốc năm châu. Tuy nhiên, hoàn cảnh hiện tại ĐN bị
đe dọa, mất tự do, đắm chìm trong khói lửa ch/tranh, hạnh phúc không thể có.
|
|
Từ suy nghĩ đó, nhà thơ lên tiếng
kêu gọi ý thức bổn phận, trách nhiệm của mỗi cá nhân đố với Đất Nước: Em ơi em
Đất Nước là
máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Lời thơ trữ tình “Em
ơi em” nhỏ nhẹ, trìu mến đã bảo hành chất trữ tình chính luận
sâu sắc cho đoạn thơ. Nhà thơ khẳng định "Đất Nước là máu xương ", là sinh
mệnh, là sự sống của con người. Vận mệnh của Đất Nước chính là vận mệnh của
chính bản thân mình, số phận của cá nhân nằm trong vận mệnh của ĐN. Vì thế,
ta cần “Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết hoá thân cho dáng
hình xứ sở”. Điệp ngữ
“phải biết” vừa là mệnh lệnh kêu
gọi vừa là lời thúc giục từ trái tim. Từ
"hóa thân" chính là
sự tự nguyện cống hiến trọn vẹn tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình vì
sự nghiệp giải phóng của dân tộc để “Làm nên Đất Nước muôn đời”, một ý tưởng hào hùng
mang tầm vóc sử thi gợi ta nhớ đến bài thơ của Tố Hữu :
Nếu được
làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn
ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm
người lính đi đầu.
|
|
Nhận xét
|
Nhìn chung, Nguyễn Khoa Điềm
viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn
trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay
mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình
tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường
tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người
tràn đầy nhiệt huyết tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại
và có khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.
|
Kết bài
|
Tóm lại, những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng,
giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày
tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày
hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi
con người trong khát vọng đưa Đất Nước
đi xa đến những tháng ngày mơ mộng
|
B. PHẦN 2: (Phần còn lại) Trả lời cho câu hỏi “Đất
Nước này là của ai?” và làm rõ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”
Phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử Đất Nước cùng
lối định nghĩa bằng thơ theo cách riêng của mình. Ở phần sau của đoạn trích,
nhà thơ đi sâu vào tư tưởng “Đất Nước của
Nhân Dân” bẳng cái nhìn toàn diện các phương diện với những phát hiện nhiều
ý nghĩa, thi vị.
1. Trước hết Đất Nước
của ai được nhìn từ phương diện địa lý: Tư tưởng ĐN của ND
dẫn nhà thơ đến cái nhìn mới mẻ có chiều sâu về địa lý (không gian).
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất
Nước những núi Vọng Phu
……………………………………………………………………………………..
Những người dân nào đã góp tên cho Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Người đọc được tiếp nhận những phát hiện rất thú vị về
những danh lam thắng cảnh trên Đất Nước ta như: thắng cảnh như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu,
núi Bút non Nghiên, những di tích lịch sử như làng Gióng, Đất Tổ trãi dài trên
khắp Đất Nước ta,… Đây không chỉ là địa hình núi sông thuần túy mà tạo hóa
ban tặng mà còn được là sự đóng góp của ND, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số
phận ND thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn ND thủy chung, yêu nước, hiếu học,…
Nếu không có những người vợ VN mòn mỏi, chung thủy đợi
chồng qua bao cuộc chiến tranh ly tán thì không thể có những núi Vọng Phu,
những hòn Trống Mái, phải chăng Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân đã khiến
những ao đầm làng xóm lấp lánh vẻ đẹp huyền thoại của lòng yêu nước. Bởi có
truyền thuyết Hùng Vương nên địa hình núi sông hùng vĩ của Đất Nước mới được
gọi là “99…Hùng Vương”. Niềm tự hào
về mặt đất thiêng, xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa thành tên gọi Cửu
Long cho dòng sông xanh thẳm đất Phương Nam. Truyền thống hiếu học của những
người VN qua bao đời đã được tạc ghi trong tên gọi “núi Bút non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp của ND đã đặt
tên cho sông núi: ông Đốc, ông Trang, bà
Đen, bà Điểm, cả đến con cóc, con gà cũng góp cho quê hương thành thắng cảnh,
thành ĐN dung dị mà tươi đẹp.
Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những dòng thơ đẹp soi
bóng tâm hồn và những cuộc dời vô danh càng thấm thía một điều bình dị Đất Nước
này là Đất Nước của Nhân Dân gần gũi thiêng liêng cao quý :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
……………………………………….
Những cuộc đời đã hóa
núi sông ta.
Ý thơ được nâng lên tầm khái quát: sự hóa thân của nhân dân
vào bóng hình Đất Nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, đã ghi
dấu ấn cuộc đời mình lên những ngọn núi dòng sông, miền đất quê hương. Điệp từ "góp cho" biến mỗi câu thơ thành một
lời khẳng định về những vai trò to lớn của con người nhỏ bé bình dị. Chính họ
bằng tình yêu và nỗi đau, nghị lực và sức sáng tạo của mình đã làm nên linh hồn
cho núi sông bờ cõi. Từ điểm nhìn về thiên nhiên kì thú, Nguyễn Khoa Điềm đã
dạy cho ta cách "cảm" để
yêu thêm vẻ đẹp của đất nước muôn đời .
2. Đất Nước của ai
được nhìn từ phương diện thời gian và lịch sử
Tiếp theo, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng Đất Nước nhân
dân bằng cách nghĩ về bốn ngàn năm Đất Nước:
Em ơi em
………………………….........
Nhưng họ làm ra Đất
Nước.
Khi nói về lịch sử Đất Nước, NKĐ không điểm tên các triều
đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp những người vô danh bình dị. Đó
là biết bao người con gái, con trai, bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi đã lao
động và chiến đấu suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước. Tên tuổi họ chưa một lần
được khắc ghi trong sử vàng dân tộc, nhưng cuộc đời thầm lặng của họ đã hóa núi
sông, những cảnh sắc cuộc đời của họ đã hóa tâm hồn, khí phách dân tộc. Có
thể nói rằng chính những con người bình dị "vô danh như cát", "Sống
trong cát, chết vùi trong cát - Những
trái tim như ngọc sáng ngời" (Tố Hữu) đã góp cho đất nước không phải
những chiến công hiển hách mà bằng chính cuộc sống tâm hồn phong phú, bằng sự
hi sinh thầm lặng của mình. Chính nhân dân qua bao thế hệ đã bằng xương máu của
mình mà đặt tên cho hình sông thế núi, tạo nên một đất nước đằm thắm nghĩa
tình thủy chung.
3. Đất Nước của ai
được nhìn từ phương diện văn hóa
Và để bản trường ca thật sự có chiều sâu, Nguyễn Khoa Điềm còn làm sáng tỏ
tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân của mình qua việc khắc họa Đất Nước ở chiều sâu
văn hóa. Nền văn hóa ấy cũng bắt nguồn từ nhân dân, nền văn hóa ấy lại được lưu
giữ và truyền cho ngàn đời sau bởi nhân dân. Truyền thống ấy kết tinh ở nhân
dân... Vậy nên, chính việc nói tới chiều sâu văn hóa dân tộc mình đã giúp
Nguyễn Khoa Điềm làm rõ tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân thêm trọn vẹn
"Họ
giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền
lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ gánh
theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập
be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại
xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù
thì vùng lên đánh bại"
Tập tục của một nền nông nghiệp lúa nước được nhà thơ tái hiện qua những
câu văn. Từ những điều tưởng chừng như tầm thường, bé nhỏ như hòn than, con cúi cũng cho thấy một phần
nào đó bản sắc riêng của dân tộc. Người dân Việt Nam là thế, trải qua bao đời
họ vẫn giữ trong mình những phẩm chất riêng không thể lẫn vào đâu... Những công
việc lao động đã từ ngàn đời nay vẫn còn tồn tại... Rồi truyền thống yêu nước, căm
thù giặc... Tất cả đã làm nên một bản sắc riêng cho dân tộc Việt... Và Nguyễn
Khoa Điềm đã dùng chính những bản sắc ấy, dùng chính những gì là phong tục tập
quán ấy, để nói lên một điều
"Để Đất
Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất nước
của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"
Đất Nước - Nhân Dân tư tưởng này đã xuyên suốt bài thơ ở mạch ngầm của văn
bản giờ đã được khẳng định một cách rõ ràng. Đất Nước - Nhân dân không thể tách
rời : Nhân Dân đã làm nên Đất Nước, nhân dân đã gìn giữ và bảo vệ Đất
Nước... Những người trẻ hay những người già, chẳng phân biệt gái trai đều là
một trong hàng triệu người đang góp phần vào công cuộc giữ vững xây dựng nước
nhà... Hai câu thơ trên có sức lay động mạnh mẽ trong lòng người. Nó như một
nguồn ánh sáng thức tỉnh tâm cam ta, thức tỉnh trong ta về một niềm tự hào dân
tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn tất cả tư tưởng của mình chỉ bằng hai câu thơ.
Ta hãy nhìn lại vào năm tháng đã qua, đưa mắt theo chiều rộng hướng về không
gian địa lý, rồi lại lắng lòng mình xuống sâu cùng văn hóa quê hương... Tất cả,
đều hiểu một điều: "Đất Nước này là
Đất Nước nhân dân"...
Vậy "Đất Nước của ca dao thần
thoại"... là như thế nào ?
Dạy anh
biết "yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý
công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng
tre mà đợi ngày thành gậy
Đi trả thù
mà không sợ dài lâu.
Biết bao thi liệu dân gian được lấy từ những câu ca dao mà Nguyễn Khoa Điềm
đã gửi gắm vào đây. Sự uyên bác trong tri thức lẫn tài năng nghệ thuật văn
chương đã khiến cho bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm dù sử dụng mật độ khá dày
những điển tích dân gian, ca dao dân ca nhưng vẫn uyển chuyển và không khô
cứng...
Con người Việt Nam được thể hiện qua một trái tim yêu, qua câu ca dao rất
đáng yêu ý nhị :
"Yêu
em từ thuở trong nôi
Em
nằm em khóc anh ngồi anh ru"
Con người Việt Nam lại được khắc họa bởi lòng biết quý trọng công sức
lao động:
"Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng
rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng"
Và chưa hết, ý chí quyết tâm chống giặc bảo vệ Đất Nước mặc cho thời
gian, mặc khó khăn gian khổ một lần nữa được nhắc đến:
"Thù
này ắt hẳn còn lâu
Trồng
tre thành gậy, gặp đâu đánh què".
Nhà thơ đã chọn lọc ba
câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân: say đắm trong tình yêu, biết quý trọng nghĩa
tình và có phẩm chất kiên cường trong lao động, chiến đấu. Có thể nói, chỉ
đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân mới thật sự mang sức khái
quát, thực sự được đưa lên một tầm cao tư tưởng mới và trở thành đóng góp quý
giá vào bậc nhất cho văn học VN.
Đoạn trích khép lại là hình ảnh của dòng sông, câu hát đem lại cảm nhận Đất
nước ta hiền hòa và vĩnh cửu như dòng
sông chảy vô tận từ quá khứ đến hiện tại, vĩnh hằng cùng tương lai:
Ôi những
dòng sông bắt nước từ đâu
…………………………………………..
Gợi trăm
màu trên trăm dáng sông xuôi.
à Đoạn trích Đất Nước ở chương V
của trường ca Mặt Đường khát vọng thì đã khép lại nhưng những dư âm vẫn luôn
gợi mở nhiều suy tư trong mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm từ tình cảnh nước nhà,
đã viết nên bài thơ để thức tỉnh ý thức của tầng lớp trẻ miền Nam. Ông đã đưa
vào bản trường ca, đặc biệt là đoạn trích Đất Nước những gì đẹp nhất và tinh
túy nhất của nghệ thuật, của nội dung và giá trị về tư tưởng. Đó quả thực là sự
lao động miệt mài dày công sức và đáng trân trọng. Văn học Việt Nam sẽ còn ghi
tên Nguyễn Khoa Điềm, như một người đầu tiên đem tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân
với tất cả thế hệ người đọc và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Một hồn thơ nặng lòng
với Đất Nước, một cây bút tài hoa cùng những khám phá sâu sắc mới mẻ về tư
tưởng Đất Nước - Nhân Dân đã làm những ánh văn của Nguyễn Khoa Điểm trở thành
một kiệt tác nghệ thuật bất hủ...
III. Tổng kết: Ghi nhớ - SGK trang 123
Đoạn trích “Đất Nước” đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ
của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều
bình diện: lịch sử, địa lý, văn hóa,… Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự
nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình-chính trị sâu lắng,
tha thiết. Tư
tưởng “Đất Nước của Nhân dân” của ca
dao thần thoại của Nguyễn Khoa Điềm đã
đóng góp thêm một thành công cho thơ về
đề tài Đất Nước, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân, về Đất Nước trong thời
kì chống Mỹ. Các chất liệu của văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng
tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
BÀI THƠ “SÓNG”
– XUÂN QUỲNH
ĐỀ 1
Đề bài
|
Phân tích
vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh.
|
Mở bài
|
Xuân Quỳnh là một trong những
nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng là
gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và
nồng nhiệt. Nó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời,
con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế,
thơ tình yêu là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh
đã có một số bài thơ tình xuất sắc như: Thơ
tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ
trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một
trái tim phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng “sóng” trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm
trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu.
|
HCST
|
Bài
thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967
trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó XQ mới 25
tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu,
rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn
với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình yêu đến dập môi”. Ta gặp
Nguyễn Bính “người nhà quê” chân
thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ sĩ với tâm hồn dạt dào và say
đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”.
|
|
- Hình tượng trung tâm của bài
thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối
tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng
nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét
độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ
được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng.
Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với
khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
- Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình
nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng là
“em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình
của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân
đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng
để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với
hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã
tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong
tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc
đáo riêng cho bài thơ.
|
|
Mở đầu bài
thơ, XQ đã nêu lên đặc điểm của những con sóng:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”.
Không kể ở sông hay ở biển, lúc
thì sóng “dữ dội”, “ồn ào” lúc lại “dịu êm”, “lặng lẽ”, dữ
dội đấy rồi lại dịu êm đấy, chợt ồn ào rồi chợt lặng lẽ. Sóng luôn luôn biến
đổi với những trạng thái đối nghịch. Sóng cũng không hiểu vì sao mình lại như
thế nên muốn “tìm ra tận bể”. Phải
chăng sóng nghĩ rằng nơi biển rộng mênh mông, nơi trời nước bao la ấy sẽ giúp
cho sóng có thể hiểu được mình. Bằng phép nhân hóa, XQ đã thể hiện những dằn
vặt không hiểu nỗi mình của sóng.
Mượn sóng để làm biểu tượng cho tình yêu.
Những đặc điểm không thể lí giải được của sóng cũng chính là cái đa dạng,
phức tạp khó giải thích của tình yêu, nhất là trạng thái tâm hồn của người
phụ nữ đang yêu cũng mang trong lòng những đối nghịch thất thường và cũng “không hiểu nổi mình”. Bốn câu thơ mở
đầu không có câu chữ nào dính dáng đến tình yêu nhưng bao trùm tất cả lại là
cảm xúc yêu đương, cũng là một hình tượng khó lí giải cho minh bạch.
|
|
Tình yêu của con người muôn đời
không thay đổi, cũng như những con sóng trường tồn với thời gian không ngừng
nghỉ và mệt mỏi. Con sóng ngày xưa thế nào thì con sóng ngày nay vẫn
thế: “Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Trên mặt đại dương, “sóng” vĩnh hằng với thời
gian, trong đời thường, tình yêu luôn hiện hữu “Làm sao sống được mà không yêu/ không nhớ không thương một kẻ nào”.
Và tình yêu trở thành khát vọng của loài người, của nhân loại, đặc biệt là
trong lòng những người trẻ tuổi. Tình yêu không bó hẹp trong một phạm vi giới
hạn nào nhưng tình yêu thường đi đôi với tuổi trẻ. (Ở lứa tuổi mùa xuân của cuộc đời này, tình yêu mới phát triển mạnh mẽ
và mang đầy đủ ý nghĩa nhất. Tình yêu tràn đầy hơi thở thanh xuân làm bồi hồi
biết bao trái tim tuổi trẻ) Như vậy khát vọng tình yêu gắn liền với ngực
trẻ và chỉ có trái tim tuổi trẻ mới đủ chỗ cho tình yêu. Nhà thơ XD có lần
viết: “Hãy để trẻ con nói cái ngon của
kẹo/ Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”.
|
|
Trước không gian bao la của vũ
trụ, biển cả làm sao mà không trăn trở với những câu hỏi tự ngàn xưa : “Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về
biển lớn
Từ nơi nào
sóng lên”
Điệp từ “em nghĩ” thể hiện sự thao thức, lo
lắng. “Nghĩ” và hỏi để rồi cố gắng
tìm lời giải đáp cho sóng, cho tình yêu. Từ những nhận thức về sóng, cũng là
tình yêu, nhà thơ đi tìm những biểu hiện của tình yêu qua hình tượng sóng.
Trước hết, tình yêu là cái không thể cắt nghĩa, không thể trả lời:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta
yêu nhau”
Giữa đại dương
mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng, thật khó mà trả lời cho chính
xác. Song vẫn có thể nói: “Sóng bắt đầu
từ gió”. Thế “Gió bắt đầu từ đâu”
câu trả lời không dễ dàng, bởi xa hơn nữa vũ trụ có từ đâu.
Soi vào “sóng”, người phụ nữ nghĩ về tình yêu
của mình và đi tìm lời đáp cho sự khởi nguồn tình yêu của mình “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu
nhau”. Đó là qui luật không thể lí giải được trong tình yêu. Nhà thơ XD
từng viết “Làm sao cắt nghĩa được tình
yêu/ có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây
nhè nhẹ gió hiu hiu”.
Thật ra khi yêu,
người ta cứ muốn tìm hiểu, muốn giải thích: Vì sao ta yêu nhau? Ta yêu nhau
từ khi nào, từ ngày nào? Hỏi người yêu và cũng tự hỏi mình, nhưng cũng như
sóng biển và gió trời vậy thôi làm sao mà biết được. Tình yêu cũng như một số
quy luật thiên nhiên có những bí ẩn mà con người không dễ tìm câu trả lời.
Đoạn thơ bộc lộ tâm hồn thơ phụ nữ vừa chân thật, vừa dễ thương.
|
|
Sang khổ năm, cũng từ hình
tượng sóng Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nữa của tình yêu là nỗi
nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.
Tình
yêu lứa đôi thường được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và nỗi nhớ
là tình cảm tiêu biểu nhất. Tất nhiên trong cuộc đời, khi xa cách sẽ có nhiều
nỗi nhớ: nhớ cha mẹ, nhớ anh chị, nhớ bạn bè,… Trong thơ, nỗi nhớ của tình yêu
có nhiều sắc thái riêng biệt. Nỗi nhớ là chứng tích cho một tình yêu đích
thực: Hàn Mặc Tử có ý thơ đẹp: “Khi xa
cách không gì bằng thương nhớ”. Ca dao có không ít câu bộc lộ nỗi nhớ
trong tình yêu: “Nhớ ai em những khóc
thầm/ Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa”; hoặc “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”.
Trong VHTĐ, người xưa cũng từng có nỗi nhớ trong tình yêu: “Nhớ chàng như mảnh trăng đầy/ Đêm đêm vầng
sáng hao gầy đêm đêm”; Trong T.Kiều cũng từng có nỗi nhớ: “Sầu đông càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại
môt ngày dài ghê”. Trong VHHĐ, nỗi nhớ t/y không ít, như Xuân Diệu “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh/
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”.
Trong thơ XQ, nỗi nhớ được diễn
tả thật độc đáo và sáng tạo. Dù ở không gian nào: “dưới lòng sâu” âm thầm hay “trên
mặt nước” dữ dội; Dù ở thời gian nào “ngày”
hay “đêm”, sóng vẫn “nhớ bờ”, sóng vẫn “bồn chồn thao thức và không ngủ được”.
T/giả đã lấy không gian và thời gian để đo nỗi nhớ của em làm cho nỗi nhớ trở
nên mãnh liệt, chân thành. Nhà thơ đã vô cùng
tinh tế khi mượn một h/tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ
khi yêu.
Từ hiện tượng sóng xôn xao suốt
ngày đêm trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình yêu của mình: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn
thức”. Một sự so sánh tuyệt vời: sóng nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ
anh cả khi tĩnh lẫn trong mơ. Cái “thức”
ở trong mơ đã nói lên được sự thật của nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh
ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm thức. “Còn
thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... “Lòng em nhớ đến
anh” là câu nói giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết. Có thể nói, với
câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi
ca hiện đại Việt Nam.
|
|
Tình yêu sôi nổi nồng
nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân thành, trong
sáng, một tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy
chung:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược
về phương Nam
Nơi nào em cũng
nghĩ
Hướng về anh -
một phương”
“Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”,
“phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách trở
trong tình yêu. Gian nan, thử thách là điều không thể tránh khỏi, càng xa
cách, càng gian lao khổ cực, càng khẳng định sự bền vững thủy chung. Giống
như những con sóng dù “xuôi Bắc, ngược
Nam”, sóng vẫn muốn trở về với bờ. Cũng như “em” dù đi đâu về đâu, dù lên thác xuống ghềnh lòng em vẫn “hướng về anh một phương”, hướng về
người yêu thương nhớ. Hướng về anh thì có thể
thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã dành “hệ qui chiếu” của đời em. Cảm thông
cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ.
|
|
Từ quan niệm về tình yêu như thế, khổ thơ
thứ bảy vang lên như một lời thề đầy xúc động nhưng mạnh mẽ, dứt khoát, nêu
được sự quyết tâm của người đang yêu:
“Ở
ngoài kia dại dương
Trăm ngàn
con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn
vời cách trở”
Những từ ngữ “ở ngoài kia” hay “muôn vời” chỉ sự xa cách giữa sóng và bờ, nhưng cả trăm nghìn con
sóng, con nào cũng vượt qua bao cách trở để tới bờ. Một hình ảnh tuyệt đẹp mà
chỉ có tâm trạng của người phụ nữ đang yêu mãnh liệt mới phát hiện ra một
cách tinh tế đến như vậy. Ngày xưa lứa đôi yêu nhau, với sức mạnh của tình
yêu, họ cũng quyết tâm vượt qua mọi thử thách: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo
cũng qua” để được sống dưới một mái ấm đời đời bên nhau. Cũng giống như
Kim Trọng và Thúy Kiều, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, họ tìm đến với nhau
sau muôn vàng cách trở. XQ cũng từng khẳng định:
Tình ta như hàng cây đã qua mùa bão gió
Tình
ta như dòng sông đã yên ngày thác lũ.
(Thư
tình cuối mùa thu)
|
|
Sau những trăn trở, suy tư về
tình yêu, về không gian, XQ lại suy tư về thời gian, về cuộc đời:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
“Cuộc đời tuy dài thế” vì lúc đó nữ sĩ chỉ mới 25
tuổi còn cả cuộc đời đang ở phía trước. Tuy vậy XQ vẫn nhận thấy cái ngắn
ngủi, hữu hạn của đời người, của thời gian. “Trăm năm trong cõi người ta” ngỡ như thăm thẳm nhưng thời gian
vẫn cuốn ta về với hư vô như biển kia dẫu rộng vẫn không lưu giữ được những
áng mây bay về cõi xa xăm, vô định. Đoạn thơ thoáng một nỗi niềm khắc khoải
lo âu về sự trôi chảy của thời gian và cái ngắn ngủi của cuộc đời.
Trong đoạn thơ tuy không hiện
lên thành chữ, thành lời nhưng đó cũng là một thoáng lo âu rất chính đáng về
tình yêu: liệu tình yêu có vượt qua những quy luật tất yếu của cuộc đời. Tình
yêu đẹp là thế, thiêng liêng thế nhưng tình yêu cũng lại là thứ ngắn ngủi,
mong manh khó giữ. Trong thực tế tình yêu có khi chỉ là một khoảnh khắc: “Hôm nay yêu mai có thể xa rồi” (Nói cùng
anh-XQ), “Tình yêu đến, tình yêu đi ai
biết/ Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt” (XD), “Anh đã thấy một điều mong manh nhất/ Là tình yêu là tình yêu ngát
hương” (Hương tình yêu-Đỗ Trung Quân). Rõ ràng, tình yêu dường như gắn
với cái hữu hạn của đời người “Cuộc đời
chẳng vô cùng em biết/ Và câu thơ đâu còn mãi ngày sau” (Nói cùng
anh-XQ).
Vì thế để vượt qua giới hạn ấy, con người chỉ có một cách là hòa tan
tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu, vào cuộc đời vĩnh hằng để ngàn năm sau
những con sóng đại dương vẫn cất cao lời hát ca ngợi tình yêu bất diệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm cò vỗ”.
Nỗi trăn
trở đã trở thành bức bách thôi thúc: làm sao được tan ra thành trăm con sóng
nhỏ trong đại dương vô tận để được tồn tại mãi mãi, sống mãi giữa biển lớn
tình yêu của nhân loại. Đó là khát vọng một tình yêu cao thượng, được chia
sẻ, được hoà nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu của chung cộng đồng, một ước
vọng bay bổng tuyệt vời.
Từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ
đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết,
người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Hai khổ
thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ về thời gian và
khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu: yêu và làm thế nào để tình yêu được trường
tồn, bất tử.
|
|
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào
những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác
liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân
trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong
hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình
yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm
không ngủ được”. Đọc xong bài thơ “Sóng”
ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn
thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một
nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước
nhà.
|
|
Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa
l/mạn cùng thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm
hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp
với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm
hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ,
anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
“Sóng” là bài thơ t/yêu hay trong chùm
thơ t/yêu đặc sắc của XQ. Bài thơ thể hiện khát vọng nồng nàn tha thiết, sâu
lắng thủy chung, một t/yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu
sắc. Tác giả nói với người, nói với mình về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn
với khát vọng muôn thuở của con người.
|
ĐỀ 2
Đề bài
|
Phân tích
đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” –
Xuân Quỳnh: “Con sóng dưới lòng
sâu....Hướng về anh một phương”.
|
Mở bài
|
Xuân Quỳnh là một trong những
nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng là
gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và
nồng nhiệt. Nó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời,
con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế,
thơ tình yêu là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh
đã có một số bài thơ tình xuất sắc như: Thơ
tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ
trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một
trái tim phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng “sóng” trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm
trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu:
dẫn lại hai khổ
thơ
|
HCST
|
Bài
thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967
trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó XQ mới 25
tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu,
rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn
với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình yêu đến dập môi”. Ta gặp
Nguyễn Bính “người nhà quê” chân
thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ sĩ với tâm hồn dạt dào và say
đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”.
|
HT sóng và em
|
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy
sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối
truyền thống văn học nhưng “sóng”
của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng
tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện
với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình
yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình
tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào
nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình,
nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách
thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu
trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài
thơ.
|
PT khổ 5
|
Sau khi nêu lên đặc điểm của
những con “sóng” cũng là đặc điểm của tình yêu. Sang khổ năm, cũng từ hình
tượng sóng Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nữa của tình yêu là nỗi
nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Đây
là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa bài
thơ, như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bào thơ. Bốn câu
đầu cái tôi trữ tình nhập vào sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi
trữ tình tách ra để bày tỏ lòng mình, nhập vào rồi tách ra như vậy tuy hai mà
vẫn là một trong một dòng cảm xúc tuôn chảy.
Tình yêu lứa đôi thường được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm
và nỗi nhớ là tình cảm tiêu biểu nhất. Tất nhiên trong cuộc đời, khi xa cách
sẽ có nhiều nỗi nhớ: nhớ cha mẹ, nhớ anh chị, nhớ bạn bè,… Trong thơ, nỗi nhớ
của tình yêu có nhiều sắc thái riêng biệt. Nỗi nhớ là chứng tích cho một tình
yêu đích thực. Hàn Mặc Tử có ý thơ đẹp:
“Khi xa cách không gì bằng
thương nhớ”.
Ca dao có không ít câu bộc lộ nỗi nhớ trong tình yêu:
“Nhớ
ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa”
Hoặc “Nhớ
ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”.
Trong VHTĐ, người xưa cũng từng có nỗi nhớ trong
tình yêu:
“Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”.
Trong T.Kiều cũng từng có nỗi nhớ:
“Sầu
đông càng lắc càng đầy
Ba
thu dọn lại môt ngày dài ghê”.
Trong VHHĐ, nỗi nhớ t/y không ít, như Xuân Diệu:
“Anh
nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”.
“Tả
mây tả cát sao bằng
Tả anh thương nhớ lòng giăng vạn trùng” (Đêm trăng Hắc Hải)
Xuân Quỳnh cũng vậy, bà đã nhập vào sóng để nói
lên nỗi nhớ của mình:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Trong thơ XQ, nỗi nhớ được diễn
tả thật độc đáo và sáng tạo. Dù ở không gian nào: “dưới lòng sâu” âm thầm hay “trên
mặt nước” dữ dội; Dù ở thời gian nào “ngày”
hay “đêm”, sóng vẫn “nhớ bờ”, sóng vẫn “bồn chồn thao thức và không ngủ được”.
T/giả đã lấy không gian và thời gian để đo nỗi nhớ của em làm cho nỗi nhớ trở
nên mãnh liệt, chân thành. Nhà thơ đã vô cùng
tinh tế khi mượn một h/tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ
khi yêu.
Từ hiện tượng sóng xôn xao suốt
ngày đêm trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình yêu của mình: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn
thức”. Một sự so sánh tuyệt vời: sóng nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ
anh cả khi tĩnh lẫn trong mơ. Cái “thức”
ở trong mơ đã nói lên được sự thật của nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh
ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm thức. “Còn
thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... Ở đây Xuân Quỳnh còn dùng từ “ lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với
tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất
của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian
dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là
gan, là ruột của người phụ nữ rồi. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói giản
dị, chân thành mà nồng nàn, da diết. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh
đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
|
PT khổ 6
|
Tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái
tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân thành, trong sáng, một tình
yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy chung:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược
về phương Nam
Nơi nào
em cũng nghĩ
Hướng về anh -
một phương”
Hình như thể hiện tình yêu bằng
nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt sao đây cho đủ, cho đến tận cùng,
vì thế khổ thơ này xuất hiện. Những cặp từ trái nghĩa “Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”, “phương Bắc”, “phương Nam”
là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách trở trong tình yêu. Dân gian
hay nói: “ xuôi nam ngược bắc”,
Xuân Quỳnh đã diễn đạt ngược lại để khẳng định: dù cuộc đời, trời đất có thay
đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của em cũng
chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Hướng về
anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất
di bất dịch. Đến đây trong lời thơ không còn em và sóng, chỉ còn em và
anh – với tình yêu:
“Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại”
(Thơ tình cuối mùa thu)
Câu thơ giống như một lời thề.
Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian truân, lên thác xuống ghềnh cũng
chỉ có anh là người duy nhất. Anh đã dành “hệ qui chiếu” của đời em. Câu thơ giản dị mà sâu sắc hơn tất cả
mọi lời vàng đá. Không gian thì có bốn phương tám hướng, nhưng tình yêu chỉ
chấp nhận một phương. Có lẽ đây cũng là quan niệm về tình yêu của nữ sĩ Xuân
Quỳnh: tình yêu phải gắn với lòng chung
thủy. Tình yêu không đơn thuần là tình yêu mà tình yêu đi liền với cái
tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng thủy chung tuyệt đối. Khổ
thơ toát lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ tính kín đáo, dịu dàng, táo bạo, mãnh
liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống
của người phụ nữ phương Đông và người phụ nữ Việt Nam yêu tha thiết, chân
thành và luôn hướng tới hôn nhân. Những câu thơ như được vắt ra từ chính cuộc
đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất mát, hụt hẫng về tình cảm. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm
tình cảm của nữ sĩ.
|
Nhận xét
|
Khổ thơ 5 và 6 là hình tượng
sóng và em sóng đôi, hòa làm một, soi chiếu vào nhau cộng hưởng. Sóng chính
là nỗi lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên
chiều sâu nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967,
khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh
niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra
những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta
mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ
được”. Đọc xong bài thơ “Sóng”
ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn
thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một
nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước
nhà.
|
Kết bài
|
Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa
l/mạn cùng thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm
hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp
với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm
hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ,
anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
“Sóng” là bài thơ t/yêu hay trong chùm
thơ t/yêu đặc sắc của XQ. Bài thơ thể hiện khát vọng nồng nàn tha thiết, sâu
lắng thủy chung, một t/yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu
sắc. Tác giả nói với người, nói với mình về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn
với khát vọng muôn thuở của con người.
|
ĐỀ 3
Đề bài
|
Phân tích
đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” –
Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế
.....Để ngàn năm còn vỗ”. |
Mở bài
|
Xuân Quỳnh là một trong những
nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng là
gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và
nồng nhiệt. Nó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời,
con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế,
thơ tình yêu là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh
đã có một số bài thơ tình xuất sắc như: Thơ
tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ
trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một
trái tim phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng “sóng” trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm
trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu:
dẫn lại hai khổ thơ
|
HCST
|
Bài
thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967
trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó XQ mới 25
tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu,
rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn
với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình yêu đến dập môi”. Ta gặp
Nguyễn Bính “người nhà quê” chân
thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ sĩ với tâm hồn dạt dào và say
đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”.
|
HT sóng và em
|
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy
sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối
truyền thống văn học nhưng “sóng”
của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng
tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện
với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình
yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình
tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào
nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình,
nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách
thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu
trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài
thơ.
|
PT khổ 8
|
Sau những trăn trở, suy tư về tình
yêu, về không gian, XQ lại suy tư về thời gian, về cuộc đời:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Các cặp từ thường có trong các
vế của câu ghép: tuy – vẫn, dẫu – vẫn
mang ý nghĩa khẳng định cuộc đời tuy dài, nhưng vẫn là hữu hạn.“Cuộc đời tuy dài thế” vì lúc đó nữ sĩ
chỉ mới 25 tuổi còn cả cuộc đời đang ở phía trước. Tuy vậy XQ vẫn nhận thấy
cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người, của thời gian. “Trăm năm trong cõi người ta” ngỡ như thăm thẳm nhưng thời gian
vẫn cuốn ta về với hư vô như biển kia dẫu rộng vẫn không lưu giữ được những
áng mây bay về cõi xa xăm, vô định. Đoạn thơ thoáng một nỗi niềm khắc khoải
lo âu về sự trôi chảy của thời gian và cái ngắn ngủi của cuộc đời, sự âu lo
trăn trở mang màu sắc triết lý về khái niệm thời gian và năm tháng.
Trong đoạn thơ tuy không hiện
lên thành chữ, thành lời nhưng đó cũng là một thoáng lo âu rất chính đáng về
tình yêu: liệu tình yêu có vượt qua những quy luật tất yếu của cuộc đời. Hơn
nữa Xuân Quỳnh trải qua nhiều năm tháng đầy biến động của cuộc đời, đã nếm
trải ngọt ngào và cay đắng của hạnh phúc, nên lo âu về tình yêu trở thành nỗi
ám ảnh xót xa. Bởi tình yêu đẹp là thế, thiêng liêng thế nhưng tình yêu cũng
lại là thứ ngắn ngủi, mong manh khó giữ. Trong thực tế tình yêu có khi chỉ là
một khoảnh khắc:
“Hôm nay yêu mai có thể xa rồi” (Nói cùng anh-XQ),
“Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết/ Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”
(XD),
“Anh đã thấy một điều mong manh nhất/ Là tình yêu là tình yêu ngát
hương” (Hương tình yêu-Đỗ Trung Quân).
“Cuộc đời chẳng vô cùng em biết/ Và câu thơ đâu còn mãi ngày sau”
(Nói cùng anh-XQ).
“Lời yêu mỏng manh như màu khói/Ai biết tình anh có đổi thay”
Rõ ràng, tình yêu dường như gắn
với cái hữu hạn của đời người.
|
PT khổ 9
|
Vì thế để vượt qua giới hạn ấy, con
người chỉ có một cách là hòa tan tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu, vào cuộc
đời vĩnh hằng để ngàn năm sau những con sóng đại dương vẫn cất cao lời hát ca
ngợi tình yêu bất diệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm cò vỗ”.
Nhà thơ tự
hỏi “làm sao”. Hỏi nhưng là để tự
vấn lòng mình nhằm thể hiện một ước muốn, một khát vọng về tình yêu vô cùng
táo bạo và mãnh liệt. Vì sao Xuân Quỳnh lại có khát vọng ấy? Phải chăng bà
yêu tha thiết nồng nàn và lo âu? Nhân vật trữ tình muốn được “tan ra thành trăm con sóng nhỏ”. Động
từ “tan” ra diễn tả một trạng thái
mạnh. Sự hóa thân, quên mình trong tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu để tồn
tại mãi mãi, muốn thành trăm con sóng nhỏ để được sống mãi, yêu mãi. Đó cũng
là khát vọng được hiến dâng, được hi sinh vì tình yêu mà chỉ có những người
yêu thực sự mới làm được như vậy.
Tiếp theo,
ta hãy chú ý đến từ chỉ thời gian là “ngàn
năm” và không gian “biển lớn tình
yêu”. Chuyện tình yêu và hạnh phúc ở đời thường là chuyện trăm năm “trăm năm giàu nỗi hẹn hò”, “trăm năm bến nước tình tình- trăm năm là
nghĩa là tình mình ta”, với Xuân Quỳnh chuyện tình yêu phải là chuyện của
“ngàn năm”, biển phải là “biển lớn tình yêu” vĩnh hằng và bất
tử. Động từ “tan ra” trong khổ thơ
là đỉnh điểm của cảm xúc, của nỗi nhớ, của lòng chung thủy và đức hi sinh một
cách trọn vẹn. Đó là khát vọng một tình yêu cao thượng, được chia sẻ, được
hoà nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu của chung cộng đồng, một ước vọng bay
bổng tuyệt vời.
Có thể
thấy, trước biển Xuân Quỳnh đã khơi dậy được những khát khao mới mẻ, được còn
mãi một tình yêu lớn. Khát vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt đủ
đầy da diết:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường
ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc
đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả
khi chết đi rồi”
(Tự
hát)
Từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ
đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết,
người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Hai khổ
thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ về thời gian và
khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu: yêu và làm thế nào để tình yêu được trường
tồn, bất tử.
|
Nhận xét
|
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào
những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác
liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân
trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn
cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu:
khao khát tình yêu bền vững với thời gian như sóng trên mặt đại dương, như
trăng sao trên bầu trời lộng gió. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam,
những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân
Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú
hơn cho nền thơ nước nhà.
|
Kết bài
|
Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa
l/mạn cùng thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm
hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp
với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm
hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ,
anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
“Sóng” là bài thơ t/yêu hay trong chùm
thơ t/yêu đặc sắc của XQ. Bài thơ thể hiện khát vọng nồng nàn tha thiết, sâu
lắng thủy chung, một t/yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu
sắc. Tác giả nói với người, nói với mình về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn
với khát vọng muôn thuở của con người.
|