Gợi ý
* Biểu
tượng Đầu súng trăng treo.
Đầu
súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng
chí, cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến
chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là
nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là
trăng. Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài
hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh đối lập đặt cạnh
nhau tạo ra ý nghĩa vô cùng độc đáo. Súng là chiến tranh lạnh lùng, là gợi ra
sự chết chóc, tàn phá, ghê sợ. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên
sự thanh cao, hạnh phúc, thơ mộng, dịu dàng. Người lính cầm súng để bảo vệ hòa
bình, khát khao hòa bình. Súng và trăng : cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi
sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng
chí.
Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo - một biểu tượng thơ
giàu sức gợi cảm. Tác giả đã từng nói : "Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trước
mắt tôi chỉ có ba nhân vật : Khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba
nhân vật quện với nhau tạo ra hình ảnh đầu
súng trăng treo"
Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tượng đẹp
của người lính cách mạng Việt Nam : Hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.
* Hình ảnh trăng
trong Ánh trăng của Nguyễn Duy
Ánh
trăng của Nguyễn Duy với hình ảnh trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất
nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng
trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.
Hình ảnh trăng bắt đầu gắn với
cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh. Đầy ắp
những kỉ niệm về vầng trăng trải rộng trên một thiên nhiên bao la với sông, với đồng, với bể. Thời chiến
tranh máu lửa vầng trăng đã thành tri kỉ với người lính. Vầng trăng là biểu
tượng đẹp của những năm tháng ấy, thành tri kỉ, nghĩa tình ngỡ không bao giờ có
thể quên.
Thật đáng sợ ấy là sự thay đổi
của lòng người. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sống
tiện nghi : ở buynh đinh, cao ốc,
quen ánh điện, cửa gương... Và vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình đã bị
người lãng quên, dửng dưng. Trăng
được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường,
như người dưng, chẳng còn ai nhớ,
chẳng ai hay.
Bất ngờ một tình huống của nhịp
sống thị thành : thình lình đèn điện tắt.
Và trăng xưa lại đến, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với người. Nước mắt rưng rưng của ngưòi lính, cái giật mình của người lính trước sự im
lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật
mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy
chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp. Đây chính
là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca, tự hào.
Cũng là thông điệp hãy biết nhớ
về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình, đó chính là ý nghĩa sâu sắc của
hình ảnh trăng trong bài thơ của
Nguyễn Duy.