Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

Lý thuyết văn 12 - H

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – NGUYỄN MINH CHÂU
ĐỀ 1
Đề bài
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Mở bài
Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Điều đó được thể hiện qua tình huống truyện độc đáo.
Thân bài
HCST
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
GTC
Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc. 
Tên gọi
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.
Ngoại hình
Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Số phận Bất hạnh.
Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Phẩm chất, tính cách
Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ  bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.
Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện.  Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
 Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
ĐGC
Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
:                                              Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
       Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.
                                                        Tố Hữu
Bằng biện pháp đồi lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".
                       
ĐỀ 2
Đề bài
Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Mở bài
Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng thành công những tình huống truyện hết sức độc đáo, góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Thân bài
HCST
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
GTC
Tình huống truyện là một sự kiện đặc biệt mà ở đó tính cách nhân vật, tư tưởng nhà văn được bộc lộ rõ nét. Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Tình huống truyện giống như một thứ nước rửa ảnh, làm nổi hình, nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn”. Có thể thấy ở truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo và giàu ý nghĩa. Tình huống ấy chứa đựng nhiều mâu thuẫn về cuộc đời, cho thấy sự nhận thức của tác giả về cuộc đời, về nghệ thuật. Truyện ngắn này được triển khai ở hai tình huống chính: nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được cử tới một vùng biển ở miền Trung để chụp hình bổ sung cho bộ lịch ảnh về thuyền và biển. Tại đây anh đã được chứng kiến một cảnh đẹp tự nhiên: chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm. Cùng lúc anh cũng phải chứng kiến một cảnh tượng hết sức bất ngờ và khó tin: một người đàn bà hàng chài chủ động đứng im trên bãi cát để chồng đánh đập dã man. Sau đó, anh còn có cơ hội chứng kiến người phụ nữ hàng chài đó từ chối lời khuyên đầy thiện chí của vị thẩm phán tòa án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chống vũ phu. Cách cư xử lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả hai người. Song qua đó, họ hiểu hơn về người đàn bà, thay đổi cách nhìn, cách nghĩ về cuộc đời, con người. Kiểu tình huống này xuất hiện rất nhiều trong các truyện khác của Nguyễn Minh Châu như “Bến quê”, “Bức tranh”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”…
Tình huống 1
Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng (người kể chuyện xưng tôi – một sự hóa thân của Nguyễn Minh Châu) có phẩm chất của một người nghệ sĩ giàu tâm huyết, tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Sau nhiều ngày phục kích ở biển, anh đã được chứng kiến một cảnh đắt trời cho: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Qua con mắt của người nghệ sĩ, đó quả là một cảnh đẹp tuyệt vời, kì diệu mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là những rung động thật sự, niềm hạnh phúc ngất ngây của người nghệ sĩ trước cái đẹp. Đó cũng là niềm hạnh phúc của sự khám phá, thấy cái chân lý của sự toàn thiện, toàn mĩ. Trong khoảnh khắc đó, anh nhận thấy bản thân cái đẹp chính là đạo đức khiến tâm hồn anh được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Đó là cái đẹp có khả năng thanh lọc tâm hồn con người.

Ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ lại kinh ngạc trước một bức tranh đời thường phũ phàng, nghiệt ngã. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là một người đàn bà khắc khổ, xấu xí và một lão đàn ông dáng vẻ dữ dằn. Ngay sau khi vào bờ, lão đàn ông ấy lập tức đánh đập người đàn bà hết sức tàn bạo. Hắn hùng hổ, mặt đỏ gay, trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà. Vừa đánh, hắn vừa thở, vừa nghến răng ken két, nguyền rủa: “Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Mỗi nhát quất hắn lại rên rỉ, đau đớn. Hành động thật vũ phu và tàn bạo, tưởng như không có người chồng nào như thế, nhưng trong cách đánh như chứa đựng những uất ức, khổ đau, bao dồn nén đang tuôn trào. Tấm thân người vợ trở thành chỗ để ông ta trút sự phẫn nộ trước cuộc sống cơ cực, bế tắc của lão. Người đàn bà không những không chống đỡ mà còn chủ động để chồng đánh đập. Bà đứng cam chịu, đầy vẻ nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Sự cam chịu của người đàn bà cho thấy sự tê liệt vì chịu đựng, không còn khả năng phản ứng.
Đứa con của họ - thằng Phác giận dữ, căng thẳng, chạy một mạch như một viên đạn trên đường lao tới đích ngắm. Nó nhảy xổ vào lão đàn ông, giành chiếc thắt lưng, dướn người, vung chiếc khóa sắt quật vào ngực bố. Ẩn sau hành động táo tợn, quyết liệt, giận dữ kia là cả một tình yêu thương đau đớn, mãnh liệt đối với mẹ. Tình yêu thương đó lại trở thành niềm căm hận đối với người cha, trở thành sức mạnh bùng nổ. Hành động đó mang nỗi đau nhức nhối của tâm hồn trẻ thơ, trong sáng bị tổn thương, bị đẩy vào hành động trái đạo lý.
Nhận xét chung
Hai phát hiện trên hoàn toàn đối nghịch với nhau: cảnh đẹp tuyệt vời của thiên nhiên và hiện thực nhọc nhằn của đời sống trên vùng biển. Đằng sau hai bức tranh ấy, rõ ràng nhà văn muốn gởi đến người đọc một thông điệp: đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là cái thiện, cái chân lý và đạo đức, mà có khi ngược lại là cái ác, cái xấu. Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đầy những mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện - ác; thiên thần - ác quỷ; rồng phượng - rắn rết. Bản chất cuộc đời có khi ở những góc khuất cho nên không thể chỉ nhìn cuộc đời ở bề nổi, ở bên ngoài mà phải khám phá chiều sâu bên trong của nó.
Đồng thời, nhà văn muốn nói lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống hiện thực. Nghệ thuật bao giờ cũng hướng đến cái đẹp, nhưng không thể là cái dẹp lừa đối. Người nghệ sĩ không nên tô son, bôi hồng hiện thực cuộc đời khi cuộc đời còn quá nhiều mồ hôi và nước mắt và cay đắng. Nghệ thuật thì quá xa vời trong khi hiện thực cuộc đời lại ở ngay trước mắt.
Tình huống 2
Câu chuyện ở tòa án
Đó cũng chưa phải là tận cùng của sự thật. Ở tình huống thứ hai, cuộc đối thoại giữa người đàn bà hàng chài và chánh án lại mở ra những nghịch lý mới: một sự thật khác về người đàn bà bất hạnh. Câu chuyện của người đàn bà thuyền chài ở trụ sở toà án huyện đã lý giải cho Phùng và Đẩu cũng như chúng ta hiểu đựơc nguyên do của những điều tưởng chừng như vô lý. Qua đó cũng giúp người đọc hiểu rõ hơn tấm lòng và tâm lý người phụ nữ này trong những nỗi éo le của cuộc đời.
            Ban đầu, người đàn bà có vẻ nhút nhát, sợ sệt, khúm núm. Bà đã van xin chánh án Đẩu: “Con lạy quý toà, quý toà có thể bắt con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đây quả là một điều vô lý bởi người đàn bà thường xuyên bị hành hạ, đánh đập dã man “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông ấy. Điều đó làm cho cả Phùng và chánh án Đẩu không thể hiểu được “họ cảm thấy căn phòng lồng lộng gió biển như bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”.
            Nhưng khi biết được chủ trương nhà nước “kêu gọi hoà thuận”, người đàn bà đã mất hết hết vẻ sợ sệt ban đầu và bắt đầu tâm sự về cuộc đời của mình. Chị ta nói về thời con gái “rỗ mặt, xấu không ai lấy, có mang với anh con trai thuyền chài”. Nói về người chồng “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh  đập tôi”. Chị kể về gia cảnh “nghèo khổ, túng quẩn, biển động làm ăn không được, có khi hàng tháng trời ăn toàn xương rồng luộc chấm muối”. Rồi nói về hoàn cảnh “con đông một sấp mà thuyền lại chật”. Cả nguyên nhân lão chồng đánh vợ “cứ thấy khổ là lão lại xách tôi ra đánh.” Và đặc biệt là “người đàn bà thuyền chài rất cần một người đàn ông để chèo chống khi phong ba bão tố, để làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con.. .phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Cũng có lúc vui là khi “vợ chồng hoà thuận vui vẻ, vui nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no”.
Qua những lời giãi bày chân thật ấy, ta mới hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thật thầm lặng, tình thương con mênh mông, bao la. Chị cam chịu bị chồng đánh và chỉ xin chồng đừng đánh trước mặt các con vì chị sợ rằng đứa con trai tên Phác sẽ làm điều dại dột. Thật đáng khâm phục biết bao. Từ đó, cũng giúp ta hiểu được căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo lực trong gia đình nghèo khổ. Sự tàn bạo nhiều khi được sinh ra từ cái đói, vất vả, thất học. Họ tàn bạo ngay cả với những người thân của mình. Và cuộc sống nhiều khi thật trớ trêu: “Hạnh phúc có khi thật đơn giản nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay với của con người”. Từ đó, TP đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc: không thể đơn giản dễ dãi khi nhìn ngươi, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Phải có cái nhìn đa chiều và toàn diện, phải cân nhắc xem xét sự việc đúng với bản chất của nó.
ĐGC
Đằng sau cái vô lí là cái có lí (việc người đàn bà bị hành hạ là vô lí, nhưng người đàn bà ấy không muốn rời bỏ chồng lại có lí riêng). Đằng sau cái tưởng chừng đơn giản lại chứa chất nhiều phức tạp (ban đầu, Đẩu tưởng li hôn là cách giải quyết dứt điểm được sự việc, sau đó, anh nhận ra quan hệ của họ có nhiều ràng buộc phức tạp hơn nhiều). Muốn giải quyết những vấn đề của cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí, pháp luật hoặc lí thuyết sách vở, mà phải thấu hiểu cuộc sống và cần có giải pháp thiết thực. Tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống và bộc lộ được cái nhìn nhân đạo của tác giả. Mâu thuẫn giữa nghệ thuật giản đơn và cuộc đời phức tạp, mâu thuẫn nằm ngay trong đời sống, thân phận và bản chất con người... Nhờ tình huống truyện độc đáo, tác phẩm có sức hấp dẫn, giàu kịch tính trong hành động và diễn biến mạch truyện, chiều sâu tâm lí...
Kết luận
Tóm lại, chính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Truyện có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Đằng sau tình huống truyện đó, phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt… là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hoá, thi vị hoá cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu toà án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn
 “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
I/ Mở bài
    Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Đây là một trong những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo và toát lên tính triết lí sâu sắc về cuộc sống, về con người Việt Nam thời hậu chiến.
II/ Thân bài 
1/ Giải thích khái niệm “giá trị nhân đạo”: Là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.   
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa
     Trước hết, đó là sự quan tâm tha thiết của nhà văn đối với hạnh phúc của những người lao động nghèo bằng cách: lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình. Hình ảnh người đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi dần hiện ra với "một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch", rỗ mặt, "mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Song song hình ảnh người đàn bà lag hình ảnh người đàn ông xuất hiện cùng "tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ", "đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ". Hình ảnh đã khắc hoạ phần nào cuộc sống khổ cực của họ. Chính từ cuộc sống này đã nảy sinh ra một cảnh tượng: cảnh chồng đánh vợ,"ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Tuy đã được sáng tác cách đây một phần tư thế kỉ, nhưng đề tài của tác phẩm vẫn còn rất nóng, dai dẳng đến ngày hôm nay, đó là : bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình, trong mỗi chúng ta không ai không biết nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thì đề tài này được thể hiện một cách sinh động. Chúng ta sẽ không xa lạ với hình ảnh người chồng "mặt đỏ gay, hùng hổ", rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng "quật tới tấp vào lưng" người vợ, "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ".
Không những vậy, nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người . Đúng vậy! Trong một lần tâm sự với nhà văn Lê Lựu, ông kể:"Quê tôi là Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ dội lắm! Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ vì chỉ có uống rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi nhặt chồng về. Cả làng làm nghề đánh cá, chài lưới chẳng học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt nhưng vớ phải một mụ bán bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt, lão Điềm phải thua. Lại có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh rạch ngang bụng, ruột xổ ra rồi chết(...). Một cái làng vô học,thích ai thì nấy đúng, chẳng biết phải trái gì cả".
Từ những lời tâm sự của Nguyễn Minh Châu, chúng ta cảm nhận dáng dấp của làng nhà văn cũng
xuất hiện đâu đó trong "Chiếc thuyền ngoài xa". Làng chài này có "đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật", "con nhà nào cũng trên dưới chục đứa", nhà của thằng Phác cũng không phải là ngoại lệ. Vì nghề nghiệp, ít học nên có quan niệm đẻ con đông là tốt, trời sinh voi sinh cỏ nên họ đẻ ra hàng đàn con, nhưng họ có biết đâu chính họ là cái gốc cây, cái tảng đá lớn sẽ ngăn trở xã hội tiến lên con đường hiện đại hoá; làm cho nghèo khổ đeo bám không rời, phải "ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối" hàng tháng trời khi biển động. Rồi từ đó, cái nghèo khổ làm thay đổi tất cả, nảy sinh mâu thuẫn mới. Cái nghèo khổ làm con người ta chán nản, suy sụp, thay đổi tính tình, u uất trong người và cuối cùng, đánh đập vợ con để giải toả nỗi khổ. Đó cũng là lí do để chúng ta giải thích tại sao cha thằng Phác từ một người "cục tính nhưng hiền lành" lại trở thành một ông chồng vũ phu, đánh đập vợ ở dưới thuyền rồi lên bờ và nguyền rủa vợ con chết đi. Thật đau lòng biết bao!
Đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng bày tỏ niềm trắc trở trước cuộc sống của thế hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn đối với cậu bé Phác).Đánh vợ chưa làm hắn nguôi cơn giận, lão đàn ông quay sang đánh con- thằng Phác. Lão "liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát". Giống như một cuốn phim quay nhanh với những cảnh chọn lọc, tiêu biểu, Nguyễn Minh Châu đã dựng trước mắt chúng ta sự tàn bạo ghê gớm của bạo lực gia đình: gia đình không êm ấm, con người bị thương tích, đau khổ. Ông đã dấy lên trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn nỗi lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống.Điều mọi người lo lắng và không bao giờ dư, nó đã xảy ra với Phác- một thằng bé từ "tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cha nó. Sống và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, làm cho tâm hồn Phác chất chứa những nỗi đau âm ỉ như những đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa; tâm hồn em bị tổn thương. Phác thương mẹ, hận cha; tính cách em trở nên cộc cằn, thô bạo, không hồn nhiên như những đứa bạn cùng trang lứa. Mỗi khi mẹ bị cha đánh, thằng Phác "giận dữ căng thẳng", nó "như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm" nhảy xổ vào cha nó,"giàng lấy chiếc thắt lưng", "dướng thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng" của lão đàn ông. Hay có lúc Phác dùng con dao găm làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương của nó, nhưng đã bị người chị gái giật lại. Rồi nó tuyên bố với mọi người rằng "nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh". Tất cả làm cho tâm hồn Phác bị vẩn đục. Nguyễn Minh Châu như muốn nhắn nhủ mọi người hãy bảo vệ trẻ em, hãy để chúng lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sống trong gia đình hạnh phúc, phát triển toàn diện. Đồng thời mọi người hãy tạo ra môi trường tốt đẹp cho trẻ em; cũng chính vì lẽ đó mà ở cuối truyện Nguyễn Minh Châu đã viết "sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay", như một lời thông điệp khuyên mọi người nên thay đổi môi trường sống sao cho phù hợp, tốt đẹp với trẻ em.
Hình ảnh người phụ nữ xấu xí, mệt mỏi; người đàn ông độc ác, vũ phu, đau đớn và bi kịch của cuộc đời họ như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện lên như một sắc màu khủng khiếp. Những con người u tối và đầy đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỉ dữ đày đoạ trước hết những người thân khốn khổ của mình. Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự tàn nhẫn; không chỉ bày tỏ tình thương yêu với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ mà còn chỉ ra :Nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì không thể tiêu diệt được tình trạng bạo lực. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Ở "mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó". Trong "Chiếc thuyền ngoài xa", Nguyễn Minh Châu tiếp tục khắc hoạ hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp đời thường. Thái độ cam chịu, nhẫn nhục nhưng không phải mù quáng khi bị chồng đánh. Tình thương con vô hạn, tận tâm, bao bọc, che chở, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương, luôn mang mặc cảm có lỗi. Với suy nghĩ "sống cho con chứ không thể sống cho mình" mà người đàn bà làng chài đã nhịn nhục sự vũ phu của chồng để cùng làm ăn, nuôi nấng các con và cảm thấy "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Điều này càng thể hiện rõ khi thằng Phác nhảy vô đánh cha nó thì người đàn bà mếu máo gọi tên Phác, ôm lấy con, vái con, còn cậu bé "lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt". Hành động đó làm cho ta rơi nước mắt trước tình mẫu tử thiêng liêng của họ. Có lẽ phải đau đớn, hoảng sợ đứa con có chuyện gì lắm, một người mẹ mới chắp tay "vái lấy vái để" đứa con mình. Còn đứa con thương xót mẹ nhưng nhỏ bé, bất lực, không ngờ muốn bảo vệ mẹ lại làm mẹ khổ hơn nên chỉ biết an ủi bằng những ngón tay vụng về.
Cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người phụ nữ là vẻ đẹp mẫu tính, cam chịu, cảm thông, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh và thương con tha thiết. Đây cũng chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" đã góp phần vào nền văn học hiện đại giá trị nhân đạo về sự bảo vệ trẻ em, tạo môi trường tốt đẹp cho trẻ em hoạt động và hình ảnh người phụ nữ vừa quen thuộc vừa mới lạ; vừa bình dị lại vừa cao cả, lớn lao bởi vẻ đẹp vĩnh hằng mang ý nghĩa nhân văn.
Tác phẩm giúp chúng ta hiểu hơn tâm hồn con trẻ, cũng như trách nhiệm đối với chúng; hiểu rõ hơn những nhọc nhằn, đắng cay, được mất của con người, giữa cuộc đời đầy rẫy những đổi thay, để chúng ta nhận biết, quí trọng, nâng niu lòng nhân ái, luôn vươn tới cái đẹp, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vững bước đi trong cuộc đời. Một cảm hứng chủ đạo giúp Nguyễn Minh Châu viết đượ những trang văn hay nhất mang đầy giá trị nhân đạo sâu sắc.

   Tiếp theo, giá trị nhân đạo của “Chiếc thuyền ngoài xa”còn thể hiện ở sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người nghèo khổ, bất hạnh và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của tình mẫu tử (những đau khổ, tủi nhục đến cùng cực, những niềm vui nhỏ nhoi tội nghiệp của người mẹ đều xuất phát từ con). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hi sinh thầm lặng ( d.c)
     Ngoài ra có thể nói, tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm,còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề : làm thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống (d.c).
III/ Kết bài
   Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, băn khoăn ,trăn trở của Nguyễn Minh Châu  trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình diện đạo đức thế sự. Qua đó tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai: Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người... Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp.
.
Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Nguyễn Minh Châu được sinh ra ở mảnh đất Nghệ An đầy nắng gió. Ông đã từng là sĩ quan quân đội, tham gia công tác, chiến đấu trong kháng chiến. Người con trai xứ Nghệ này còn là một nhà văn, một cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với quan điểm sáng tác rất hay: "Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người".
Vâng! Con người trong cuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn Minh Châu rất quan tâm, tìm tòi, khám phá những điều thú vị, mới mẻ. Và nói về con người thì "toàn bộ sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt". Với truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa"(1983)- một trong những tác phẩm xuất sắc thuộc giai đoạn đổi mới- Nguyễn Minh Châu càng bộc lộ rõ nét, sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình. Qua những trang viết, nhà văn gửi lại cuộc đời tấm lòng ưu ái đối với những người phụ nữ làng chài lam lũ, chịu nhiều nỗi đau đớn, thiệt thòi và những đứa trẻ của kiếp vạn đò rày đây mai đó trên sông trên biển; nhà văn gửi lại những hiểu biết, khám phá sâu sắc của mình về số phận, về những cuộc đời buồn vui, dang dở.
Truyện ngắn" Chiếc thuyền ngoài xa" lấy bối cảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của thời chống Mĩ. Mạch chính của truyện là những lời kể, những suy tư của nhân vật Phùng- một nghệ sĩ nhiếp ảnh, cũng từng là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu ở vùng biển này; nay về lại chiến trường cũ để chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Trong chuyến đi thực tế ấy, Phùng đã phát hiện ra cái mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình: đằng sau bức tranh con thuyền mờ sương rất đẹp như "một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ" mà anh đã tình cờ chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ, là sự nheo nhóc chẳng đẹp đẽ gì trong một gia đình lao động làm nghề chài lưới. Với cuộc sống nghèo khổ, cảnh vật vắng lặng, chỉ "vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Hình ảnh người đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi dần hiện ra với "một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch", rỗ mặt, "mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Song song hình ảnh người đàn bà lag hình ảnh người đàn ông xuất hiện cùng "tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ", "đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ". Hình ảnh đã khắc hoạ phần nào cuộc sống khổ cực của họ. Chính từ cuộc sống này đã nảy sinh ra một cảnh tượng: cảnh chồng đánh vợ,"ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Tuy đã được sáng tác cách đây một phần tư thế kỉ, nhưng đề tài của tác phẩm vẫn còn rất nóng, dai dẳng đến ngày hôm nay, đó là : bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình, trong mỗi chúng ta không ai không biết nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thì đề tài này được thể hiện một cách sinh động. Chúng ta sẽ không xa lạ với hình ảnh người chồng "mặt đỏ gay, hùng hổ", rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng "quật tới tấp vào lưng" người vợ, "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ".
Đánh vợ chưa làm hắn nguôi cơn giận, lão đàn ông quay sang đánh con- thằng Phác. Lão "liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát". Giống như một cuốn phim quay nhanh với những cảnh chọn lọc, tiêu biểu, Nguyễn Minh Châu đã dựng trước mắt chúng ta sự tàn bạo ghê gớm của bạo lực gia đình: gia đình không êm ấm, con người bị thương tích, đau khổ. Ông đã dấy lên trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn nỗi lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống.
Điều mọi người lo lắng và không bao giờ dư, nó đã xảy ra với Phác- một thằng bé từ "tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cha nó. Sống và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, làm cho tâm hồn Phác chất chứa những nỗi đau âm ỉ như những đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa; tâm hồn em bị tổn thương. Phác thương mẹ, hận cha; tính cách em trở nên cộc cằn, thô bạo, không hồn nhiên như những đứa bạn cùng trang lứa. Mỗi khi mẹ bị cha đánh, thằng Phác "giận dữ căng thẳng", nó "như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm" nhảy xổ vào cha nó,"giàng lấy chiếc thắt lưng", "dướng thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng" của lão đàn ông. Hay có lúc Phác dùng con dao găm làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương của nó, nhưng đã bị người chị gái giật lại. Rồi nó tuyên bố với mọi người rằng "nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh". Tất cả làm cho tâm hồn Phác bị vẩn đục. Nguyễn Minh Châu như muốn nhắn nhủ mọi người hãy bảo vệ trẻ em, hãy để chúng lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sống trong gia đình hạnh phúc, phát triển toàn diện. Đồng thời mọi người hãy tạo ra môi trường tốt đẹp cho trẻ em; cũng chính vì lẽ đó mà ở cuối truyện Nguyễn Minh Châu đã viết "sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay", như một lời thông điệp khuyên mọi người nên thay đổi môi trường sống sao cho phù hợp, tốt đẹp với trẻ em.
Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu chỉ ra việc dân trí thấp, đông con và nghèo khổ là nguy cơ đáng sợ để hình thành bạo lực gia đình. Đúng vậy! Trong một lần tâm sự với nhà văn Lê Lựu, ông kể:"Quê tôi là Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ dội lắm! Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ vì chỉ có uống rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi nhặt chồng về. Cả làng làm nghề đánh cá, chài lưới chẳng học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt nhưng vớ phải một mụ bán bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt, lão Điềm phải thua. Lại có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh rạch ngang bụng, ruột xổ ra rồi chết(...). Một cái làng vô học,thích ai thì nấy đúng, chẳng biết phải trái gì cả".
Từ những lời tâm sự của Nguyễn Minh Châu, chúng ta cảm nhận dáng dấp của làng nhà văn cũng
xuất hiện đâu đó trong "Chiếc thuyền ngoài xa". Làng chài này có "đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật", "con nhà nào cũng trên dưới chục đứa", nhà của thằng Phác cũng không phải là ngoại lệ. Vì nghề nghiệp, ít học nên có quan niệm đẻ con đông là tốt, trời sinh voi sinh cỏ nên họ đẻ ra hàng đàn con, nhưng họ có biết đâu chính họ là cái gốc cây, cái tảng đá lớn sẽ ngăn trở xã hội tiến lên con đường hiện đại hoá; làm cho nghèo khổ đeo bám không rời, phải "ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối" hàng tháng trời khi biển động. Rồi từ đó, cái nghèo khổ làm thay đổi tất cả, nảy sinh mâu thuẫn mới. Cái nghèo khổ làm con người ta chán nản, suy sụp, thay đổi tính tình, u uất trong người và cuối cùng, đánh đập vợ con để giải toả nỗi khổ. Đó cũng là lí do để chúng ta giải thích tại sao cha thằng Phác từ một người "cục tính nhưng hiền lành" lại trở thành một ông chồng vũ phu, đánh đập vợ ở dưới thuyền rồi lên bờ và nguyền rủa vợ con chết đi. Thật đau lòng biết bao!
Hình ảnh người phụ nữ xấu xí, mệt mỏi; người đàn ông độc ác, vũ phu, đau đớn và bi kịch của cuộc đời họ như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện lên như một sắc màu khủng khiếp. Những con người u tối và đầy đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỉ dữ đày đoạ trước hết những người thân khốn khổ của mình. Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự tàn nhẫn; không chỉ bày tỏ tình thương yêu với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ mà còn chỉ ra :Nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì không thể tiêu diệt được tình trạng bạo lực. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Ở "mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó". Trong "Chiếc thuyền ngoài xa", Nguyễn Minh Châu tiếp tục khắc hoạ hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp đời thường. Thái độ cam chịu, nhẫn nhục nhưng không phải mù quáng khi bị chồng đánh. Tình thương con vô hạn, tận tâm, bao bọc, che chở, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương, luôn mang mặc cảm có lỗi. Với suy nghĩ "sống cho con chứ không thể sống cho mình" mà người đàn bà làng chài đã nhịn nhục sự vũ phu của chồng để cùng làm ăn, nuôi nấng các con và cảm thấy "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Điều này càng thể hiện rõ khi thằng Phác nhảy vô đánh cha nó thì người đàn bà mếu máo gọi tên Phác, ôm lấy con, vái con, còn cậu bé "lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt". Hành động đó làm cho ta rơi nước mắt trước tình mẫu tử thiêng liêng của họ. Có lẽ phải đau đớn, hoảng sợ đứa con có chuyện gì lắm, một người mẹ mới chắp tay "vái lấy vái để" đứa con mình. Còn đứa con thương xót mẹ nhưng nhỏ bé, bất lực, không ngờ muốn bảo vệ mẹ lại làm mẹ khổ hơn nên chỉ biết an ủi bằng những ngón tay vụng về.
Cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người phụ nữ là vẻ đẹp mẫu tính, cam chịu, cảm thông, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh và thương con tha thiết. Đây cũng chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" đã góp phần vào nền văn học hiện đại giá trị nhân đạo về sự bảo vệ trẻ em, tạo môi trường tốt đẹp cho trẻ em hoạt động và hình ảnh người phụ nữ vừa quen thuộc vừa mới lạ; vừa bình dị lại vừa cao cả, lớn lao bởi vẻ đẹp vĩnh hằng mang ý nghĩa nhân văn.
Tác phẩm giúp chúng ta hiểu hơn tâm hồn con trẻ, cũng như trách nhiệm đối với chúng; hiểu rõ hơn những nhọc nhằn, đắng cay, được mất của con người, giữa cuộc đời đầy rẫy những đổi thay, để chúng ta nhận biết, quí trọng, nâng niu lòng nhân ái, luôn vươn tới cái đẹp, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vững bước đi trong cuộc đời. Một cảm hứng chủ đạo giúp Nguyễn Minh Châu viết đượ những trang văn hay nhất mang đầy giá trị nhân đạo sâu sắc.