Đề
1:
Phân tích diễn biến tâm trạng trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Từ đó nêu những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam
trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo. Nhận xét về một số
nét đặc sắc của truyện ngắn này.
-
“Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở từ những chân
cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn
quê. Thạch Lam là nhà văn quí mến
cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người xung quanh”.
Chính tình cảm quí mến và trang trọng ấy giúp Thạch Lam cảm nhận
sâu sắc những cảm xúc tinh tế của Hai
đứa trẻ trong truyện ngắn cùng tên. Qua đó, tác giả thể hiện cảm
hứng nhân đạo mới mẻ, đặc sắc.
II. Giải quyết vấn
đề
Khái
quát: Tác phẩm Hai
đứa trẻ in trong tập Nắng trong
vườn, xuất bản năm 1938. Truyện nhưng không có chuyện, chỉ là câu
chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo logic sự kiện mà
giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không
gian nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ
bé, những cảnh đời đơn điệu hắt hiu. Toàn truyện là những cảm xúc
và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện đó trong khoảng thời
gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thật tinh tế trong
việc diễn tả những rug động của hai đứa trẻ.
1.
Diễn biến tâm trạng
a). Trước hết là tâm trạng của
hai đứa trẻ trước cảnh chiều tàn
-
Câu chuyện mở ra trong một khung cảnh chiều buồn man mác.
-
Liên và An là những đứa trẻ từng sống ở HN, nay theo mẹ về vùng quê
hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian bóng tối để những nỗi buồn chiều
quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ.
+.
Liên cảm nhận được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc.
Đó là tiếng trống thu không, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những
áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn…gợi lên cái nhịp thời gian đang
trôi, gieo vào lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó quá
khó nắm bắt.
+.
Cùng với cảm giác về thời gian còn là âm thanh tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng ruộng, tiếng
muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi
cát bụi quen thuộc… Đó là những xúc cảm rất quen thuộc, thể hiện
sự gắn bó với quê hương.
-
Cảnh chợ tàn người về hết và
tiếng ồn ào cũng mất…càng khiến lòng Liên thấm đẫm nỗi buồn về
một cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào chiều tàn lụi.
b). Trong bóng tối
-
Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liên hướng tầm nhìn ra khung
cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé,
mong manh:
+.
Thương xót cho những đứa trẻ nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ
còn xót lại của một phiên chợ tàn.
+.
Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu cuộc sống tẻ
nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị.
+.
Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của
gánh phở bác Siêu, gánh đi gánh về gợi lên một nhịp sống buồn tẻ.
+.
Thương xót, thậm chí còn sợ hãi trước tiếng cười khanh khách của bà
cụ Thi điên. Đó là cảm nhận về sự mỏng mang của kiếp người.
+.
Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của chính bản
thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi, chiếc chõng tre sắp
gãy, tính nhẩm, “ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”.
"
Liên cảm nhận được nỗi buồn thấm thía trước cảnh quá quen của những kiếp người nhỏ bé, leo lét trong
không gian mênh mông tă tối của phố huyện.
-
Tầm hồn nhỏ bé và nhạy cảm của Liên cũng buồn và nuối tiếc một
quá khứ xa xăm-những ngày sống ở HN- một HN sáng rực và huyên náo
với những cốc nước xanh đỏ. Đó là một quá vãng xa xôi mà giờ đây
trong tâm trí Liên tất cả hiện lên đều không rõ ràng.
-
Liên có cái nhìn huyền diệu về vũ trụ bao la thăm thẳm và bí ẩn.
Đó là một vò trời ngàn sao lấp lánh, dải Ngân Hà, ông thần Nông
cùng con vịt. Thế nhưng vũ trụ lại quá xa lạ với tâm hồn trẻ thơ,
nó làm “mỏi trí nghĩ” của hai
chị em. Nên chỉ một lúc sau, hai chị em “lại cúi nhìn về mặt đất”.
-
Cảnh đồng quê về đêm thật yên tĩnh, lặng lẽ. Tất cả sự dày đặc của
bóng tối đang vây quanh “ đường phố
và các con ngõ chứa đầy bóng tối” trong khi đó các cửa nhỏ chỉ
để hé ra “một khe ánh sáng”, những
vệt sáng của
đom đóm, các “quầng sáng thân
mật xung quanh ngọn đèn”. Sự đối lập gay gắt giữa bóng tối và ánh
sáng tô đậm sự buồn tẻ, lay lắt của phố huyện – một cuộc sóng mù
sáng. Điều đó càng khiến tâm hồn Liên thấm thía nỗi buồn.
c). Trong tâm trạng buồn Liên
hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng
chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Diễn biến tâm trạng chờ tàu của
hai chị em Liên được Thạch Lam miêu tả khá tinh tế.
-
Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là nhu cầu tinh thần hàng
đêm. Bởi vậy, An mặc dù đã buồn ngủ
díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu
đến chị đánh thức em dậy nhé”.
"
Hai chị em Liên chời đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ
đợi phút giao thừa thiêng liêng. Liên lặng lẽ chờ đợi với tâm trạng
yên tĩnh trong tâm hồn.
-
Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An hướng cả
hồn mình vào đoàn tàu khi còn ở xa
“tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới với những toa hạng sang,
kèn và đồng lấp lánh, các cửa kính sáng.
"
Con tàu đã đem đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ,
vui vẻ, huyên náo- một thế giới khác hẳn với sự nghèo khôt hàng
ngày.
-
Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua
đi vào đêm tối. Ta bắt gặp phía sau đoàn tàu một nguồn ánh sáng nhỏ
nhoi chỉ trực tan hòa vào bóng tối. An nhận ra tàu hôm nay “kém
sáng hơn”, nhưng Liên vẫn “lặng
theo mơ tưởng”. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để
lại niềm khao khát cho những con người nơi đây “chừng ấy con người…của họ”.
2.
Những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng
nhân đạo
-
Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn
áp bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm
giận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời.
Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa tư tưởng nhân đạo đặc sắc. Tư tưởng nhân
đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm thương xót chân thành của nhà
văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện nhỏ bé. Nhà
văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa trong “cái ao đời bằng phẳng”, cuộc “đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến”.
Từ chị em Liên, mẹ con chị Tí đến bà cụ Thi Điên, gia đình bác Sẩm,
bác Siêu, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống.
+.
Họ tồn tại trong một nhịp sống uể oải, tù túng , bế tắc với những
công việc tẻ nhạt, buồn chán, lặp đi lặp lại “ngày nào cũng vậy”, “chiều nào cũng thế”, “đem ra rồi lại
dọn vào”, “gánh đi rồi lại gánh về”…
+.
Đọc thấu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả
những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt, bằng phẳng như Huy Cận
nói:
Quanh
quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới
hay lui vẫn từng ấy mặt người
Vì
quá quen nên quá đỗi buồn cười
Môi
nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện. (Quanh
quẩn)
"
Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy, tác phẩm của Thạch Lam có giá trị
nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam
với các tác giả khác: Xuân Diệu (tỏa nhị Kiều), Nam Cao (Sống mòn).
-
Không chỉ dừng lại ở sự xót thương, với hình ảnh đoàn tàu đi qua
phố huyện TL dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một
hi vọng mong manh. Ánh sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát
đổi thay, khao khát cuộc sống có ý nghĩa hơn, dẫu chỉ là trong mong
ước “Chừng ấy con người…họ”.
Đặt
trong hoàn cảnh XHVN những năm 30- 45, những khao khát ấy cũng chính
là sự thức tinh ý thức cá nhân mới mẻ. Nói lên điều này, tác phẩm
của Thạch Lam đã góp phần làm phong phú hơn cho tư tưởng nhân đạo của
văn học giai đoạn này.
3.
Một số nét đặc sắc về nghệ thuật
-
Cách dựng truyện:
+.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có truyện, không có
những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình
tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều.
+.
Nhưng câu chuyện vẫn hấp dẫn người đọc bởi chính mạch tâm tình của
nó. Cả truyện được phát triển theo những diễn biến tâm trạng tinh
tế, phức tạp của các nhân vật. Từ đó khơi ngợi cho người đọc những
xúc cảm thân quen, những nỗi niềm về quá vãng…Cách kể chuyện tâm
tình là một sáng tạo riêng của Thạch Lam góp phần tạo nên sự độc
đáo, hấp dẫn .của tác phẩm.
-
Xây dựng nhân vật:
Nhân
vật trong tác phẩm Hai đứa trẻ không được xây dựng
là những tính cách điển hình mà được khám phá ở chiều sâu tâm
trạng. Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự
thành công của thiên truyện.
+.
Những đoạn văn miêu tả nỗi buồn của Liên trong buổi chiều tà.
+.
Xúc cảm mênh mông trước vũ trụ bao la.
"
Là những đoạn văn rất giàu chất thơ, thể hiện khả năng diễn tả tâm lí
nhân vật của Thạch Lam, gợi lên những cảm xúc thân quen trong lòng
người.
-
Thủ pháp nghệ thuật độc đáo;
+.
Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên những ám ảnh trong lòng
người: bóng tối bao trùm toàn tác phẩm. Nó xuất hiện ngay đoạn văn
mở đầu, dần lan tỏa khắp thiên truyện:
đường phố…bóng tối, tối hết cả…nữa, đêm tối…yên lặng.Thậm chí
bóng tối còn ngập dần đầy trong mắt Liên.
"Ngoài
ý nghĩa tả thực hình ảnh bóng tối rất ám ảnh. Cảnh phố phường
chìm trong bóng tối được diễn tả chi tiết khiến người đọc dễ liên
tưởng tới xã hội Việt Nam
trước cách mạng tháng Tám.
+.
Nhưng trong bóng tối không phải không có áng sáng:
·
Ánh sáng xang hắt qua khe cửa những
hiệu khách.
·
Ánh sáng từ những ngôi sao xa xanh.
·
Ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí chỉ
là một quầng sáng thân mật.
"
Ánhh sáng nhỏ bé, lẻ loi chỉ đủ soi
rọi xung quanh. Sự xuất hiện của ánh sáng khiến ta càng thấm thía
hơn sự nhỏ bé của kiếp người mong manh. Và người ta càng khát khao
biết bao trước ánh sáng rực rỡ, chói lòa – ánhh sángg đoànn tàuu h là thứ ánhh sángg khácc từ cái tăm tối
hàng ngày của họ.
]
Sự xuất hiện của ánh sáng- bóng tối chính là sự sáng tạo độc đáo
làm bật sức sống của tác phẩm.
+.
Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ:
“chiều chiều rồi…đưa vào”
“Một đêm mùa hạ…gió mát”.
III. Kết thúc vấn
đề
Hai đứa trẻ là
một truyện ngắn hay của TL. Nó không hấp dẫn người đọc bằng những
tính cách sắc nét, tình huống li kì. Nó hấp dẫn người đọc bằng
chính vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đã được khám phá, cảm nhận
bằng chính ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng của tác giả.
Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đượm buồn thể
hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ, đặc sắc của TL. Qua đó, chúng
ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ trang trọng
trước sự sống.
Đề
2:
Phân tích bức tranh phố huyện trong truyện ngắn hai đứa trẻ. Từ đó nhận xét về giá trị hiện thực và nhân đạo
TL
là cây bút nhạy cảm, có khả năng khơi gợi những rung động mong manh,
tinh tế.
HĐT là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật độc đáo của TL. Tác phẩm được in trong tập Nắng trong vườn. Qua những rung cảm
và dòng suy nghĩ miên man của cô bé Liên, tác giả đã thể hiện niềm
xót thương trước cuộc sống tù đọng, bế tắc trong xã hội cũ của
người lao động và niềm khao khát của họ về một cuộc sống có ý
nghĩa hơn. Thể hiện chủ đề này, TL đã miêu tả những cảnh đầy ấn
tượng bằng việc vẽ lên bức tranh phố huyện ám ảnh, day dứt tâm hồn
mỗi người.
II. Giải quyết vấn
đề
1.
Khung cảnh thiên nhiên
-
Câu chuyện mở ra bằng khung cảnh một buổi chiều tà gợi buồn chiều chiều rồi. Nhịp điệu câu văn
đều đều nhưng vẫn có một chút thảng thốt nghe như một tiếng thở
dài.
-
Buổi chiều được gợi ra trước hết với những chi tiết thật tinh tế:
+.
Tiếng trống: từng tiếng một vang ra
để gọi buổi chiều, nhịp trống chậm rãi, thong thả như điểm vào
nhịp bước đi của thời gian.
+.
Sắc màu: phương Tây đỏ rực như lửa
cháy, những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Bức tranh có
sắc đỏ rực của mặt trời nhưng không mang đến cho người đọc cảm giác
ấm áp mà chỉ là cảm giác vội vã của cảnh ngày sắp tắt.
+.
Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve càng tô đậm
hơn sự yên lặng, vắng vẻ của một phố huyện trong cảnh chiều tàn.
"
không nhiều, chỉ bằng vài nét phác họa nhưng cũng đủ để có một nỗi
buồn bâng khuâng, man mác, mơ hồ trong khung cảnh buổi chiều quê.
] Trong một đoạn văn ngắn, 5 từ chiều, hai từ buồn cùng với nhịp điệu
câu văn chậm rãi, thong thả, ru hồn người vào nỗi buồn man mác.
Bức
tranh thiên nhiên ngay từ khúc dạo đầu đã tạo không khí trầm buồn hắt
hiu cho toàn thiên truyện.
2.
Bức tranh đời sống
-
Đặc biệt TL đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ
mặt của phố huyện:
+.
Nói đến chợ người ta thường nghĩ ngay đến một nơi đông vui tấp nập.
Nó là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, là nơi biểu hiện
thuần phong mĩ tục. TL đã khéo léo tả cảnh ngày phiên để nói hết xơ
xác, tiêu điều của phố huyện.
+.
Cảnh chợ mở ta bằng hình ảnh: người
về hết và tiếng ồn ào cũng mất; trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ
bưởi, vỏ thị, nhãn và lá mía. Mặc dù thế nhưng lũ trẻ vẫn cố
bòn mót trong đám phế thái đó một chút gì còn sót lại. Ngày chợ
phiên như thế thì sức sống đã thực kém. Tất cả mọi người đều trông
chờ vào nhau nhưng chỉ là sự quẩn quanh, vô vọng, trông chờ vào sự
quẩn quanh, vô vọng.
·
Mùi vị tỏa ra từ khung cảnh ấy là
mùi của rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ
thị…một mùi âm ẩm, ngai ngái. Đó là thứ mùi rất đặc trưng để nói
tới sự nghèo nàn. Nó đã góp phần làm khung cảnh thêm tàn lụi, héo
úa.
+.
TL đã sử dụng thật tài tình nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng và
bóng tối: câu chuyện mở ra trong lúc giao tranh giữa ánh sáng và bóng
tối.
·
Ánh sáng nhạt dần: phương Tây đỏ rực…, ánh ngày sắp tàn rồi bóng tối xuất
hiện trên ngọn tre và cuối cùng bao trùm lên cả phố huyện là cái
bóng tối mênh mông.
·
Ánh sáng thu hẹp phạm vi: như ánh
sáng của ngôi sao xanh trên bầu trời, ánh sáng yếu ớt, ảm đạm lọt
qua khe cửa khép hờ, ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn của chị Tí… tất
cả đều mờ nhạt,yếu ớt, không đủ soi tỏ.
·
Bóng tối thì chiếm lĩnh và bao
phủ: đường phố và các con ngõ chứa đầy bóng tối, tối hết cả, tối
cả con đường ra sông, con đường qua chợ về nhà, thậm chí bóng tối
còn ngập dần đầy trong đôi mắt Liên
] ánh sáng >< bóng tối, thể hiện
sự ám ảnh về cuộc sống ngột ngạt, tù túng, không lối thoát.
-
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người – chứng nhân của
cuộc sống nghèo nàn, đơn điệu hiện lên thật ám ảnh.
+.
Điển hình cho những kiếp người đó là chị Tí với nhịp sống quẩn quanh. Ngày cho mò cua
bắt tép, tối đến chị mới dọn hàng nước. Nhưng cái đáng sợ là dẫu
biết sớm hay muộn có ăn thua gì
chị vẫn dọn. Đây không phải là cuộc
sống thật sự mà sự cầm chừng giao tranh với sự sống. Ngay cả
cách trả lời Liên “ Ôi chao! …gì” cũng góp phần cho ta
thấy cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh của nhân vật.
+.
Bà cụ Thi điên: chỉ đủ tiền mua một cút rượu uống một hơi cạn sạch. Đó là một
hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào
trong bóng đêm.
FPhải
chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh. Người điên,
người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa.
+. Bác
Siêu- với gánh phở của mình hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự
với sư sống. Nhưng ở nơi phố huyện nghèo này, Phở trở thành một thứ quà xa xỉ,
vì vậy nguy cơ ế hàng càng cao.
+.
Gia đình bác Xẩm: dùng lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống. Nhưng ở nơi cái ăn
còn chẳng có thì người dân nghèo làm gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Vì
vậy, cái nghèo, cái đói luôn rình rập gia đình bác.
+
Tiền cảnh bức tranh đời buồn thảm, héo tàn là bóng hai chị em Liên
cũng âm thầm không kém với cái cửa
hàng tạp hóa nhỏ xíu, khách hàng là những con người khốn khổ
không đủ tiền mua lấy nửa bánh xà phòng.
Liên
thương cho những kiếp người lay lắt nhưng bản thân cuộc sống của Liên
cũng không tránh khỏi cuộc sống nghèo nàn đơn điệu.
Trong
nỗi buồn chung của mọi người, bi kịch của Liên là ý thức được nỗi
buồn và sự đơn điều, bủa vây.
+.
Chi tiết ấn tượng nhất là cảnh đoàn tàu: đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
(phân tích hình ảnh đoàn tàu)
] khát vọng về sự đổi thay
trong xã hội.
3.
Giá trị hiện thực và nhân đạo
a).
Hiện thực
-
Bức tranh phố huyện là hình ảnh khái quát đầy đủ cái tăm tối, chật
hẹp của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Thân phận con
người ở đây thật nhỏ bé, đáng thương.
"
Thạch Lam đã thực sự gặp gỡ với nỗi buồn chán, bế tắc trong tâm
hồn những người cùng thời.
Huy Cận:
Quanh
quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới
hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì
quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi
nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
b).
Nhân đạo
-
Cảm xúc xót thương của tác giả cho những cảnh đời phải sống không ra
sự sống.
-
Thức dậy ở con người những khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn,
khác với cuộc sống tù đọng tối tăm, bế tắc của họ: hình ảnh đoàn tàu.
Đặt trong hoàn cảnh xã hội VN
30-45, khát vọng mà TL hướng tới chính là sự thức tỉnh của ý thức
cá nhân sâu sắc. Đây chính là giá trị nhân bản có chiều sâu, gặp gỡ với kgast vọng
sống của Xuân Diệu: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/Còn hơn
buồn le lói suốt trăm năm”, gặp gỡ với khát vọng xây dựng được một
sự nghiệp có ích cho mình và cho xã hội trong những tác phẩm của
Nam Cao.
III. Kết thức vấn
đề
-
HĐT là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Tác phẩm thể hiện đậm
chất phong cách TL.
-
Với giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm TL sẽ còn sống
mãi trong lòng người đọc.
Đề 3: Chất hiện thực và lãng mạn
trong truyện ngắn
I. Mở bài
-
Giới thiệu tác giả Thạch Lam.
-
Giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ.
-
Vấn đề cần nghị luận: chất hiện thực và
lãng mạn
II. Thân bài
1.
Chất hiện thực
-
Chất hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời
mòn mỏi, quẩn quanhm bế tắc.
+.
Bức tranh mở ra bằng một cảnh chiều tàn với những âm thanh quen thuộc của đồng
quê: tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi
vo ve cùng với những hình ảnh chân thực khi hoàng hôn tắt: phương tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây, dãy tre làng.
F
Tất cả như tự nó bước vào trang văn của Thạch Lam.
+.
Cảnh một phiên chợ vãn ở một miền quê được miêu tả chân thực đến từng chi tiết:
·
Ống kính của nhà văn đã nhìn lại trên
mặt đất để thấy: rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn… đó là những thứ còn sót lại của một phiên chợ quê.
·
Phát hiện ra cái mùi đặc biệt của quê hương:
“cái mùi riêng của đất của quê hương này”, được tạo nên từ cái “mùi âm ẩm …quen
thuộc”
FThạch
Lam đã sử dụng những chất liệu đời thường làm nên trang văn đậm đà hương sắc đồng
quê.
+.
Cảnh sống nơi phố huyện: Không ồn ào,
không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống TL
đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo.
·
Đó là gia đình chị Tí: Ngày mò cua bắt
tép, tối dọn hàng. Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng
từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài của chị chỉ là một chõng hàng.
F
Đây chính là một điển hình cho cuộc sốnglay lắt, ngoi ngóp nơi phố huyện. Đó
chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng không phải là sự sống thực sự.
·
Bà cụ Thi điên: chỉ đủ tiền mua một cút
rượu uống một hơi cạn sạch. Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo
và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm.
FPhải
chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh. Người điên,
người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa.
·
Bác Siêu- với gánh phở của mình hi vọng
sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sư sống. Nhưng ở nơi phố huyện
nghèo này, Phở trở thành một thứ quà xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế hàng càng cao.
·
Gia đình bác Xẩm: dùng lời ca tiếng hát
của mình để kiếm sống. Nhưng ở nơi cái ăn còn chẳng có thì người dân nghèo làm
gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Vì vậy, cái nghèo, cái đói luôn rình
rập gia đình bác.
·
Hai đứa trẻ: chính là những mảnh đời đáng
thương nhất.Chúng còn nhỏ nhưng đã phải thay mẹ quán xuyến cửa hàng. Hơn nữa
chúng từng có một tuổi thơ tươi đẹp gắn với Hà Nội rực rỡ ánh sáng. Chúng là
những đứa trẻ có tâm hồn đặc biệt nhạy cảm nên chúng sớm nhận ra nhịp điệu buồn
tẻ của cuộc sống nơi phố huyện.
8Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã
làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Một xã hội sa
sút tiêu điều, trì trệ, một xã hội đang
“nổi váng lên”. Đó là xã hội của những
hình nhân biết cử động trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu “Toả nhị Kiều”.
Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời “đời tẻ nhạt như tàu không đổi
chuyến”. Những kiếp người quẩn quanh đó đã đi vào trong thơ văn của Huy Cận:
Quanh
quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới
hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì
quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi
nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
" Không đi vào xung đột gay gắt,
những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực, TL đã lặng lẽ góp nhặt
những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm bình lặng, những đốm sáng
lẩn khuất leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên bức tranh hiện thực khó
quên.
Bức tranh hiện thực có sức ảm ảnh có lẽ bởi TL đã vẽ bằng
bút phá lãng mạn. Cái lãng mạn của TL không phải là sự tô hồng đời sống của người
dân phố huyện theo kiểu tiểu thuyết lãng mạn của TLVĐ. Lãng mạn của TL là vẻ đẹp
tiềm tàng ngay trong đời sống giản dị quanh ta. Chất hiện thực và lãng mạn hoà
quyện đan xen trong mỗi trang văn của TL.
2.
Chất lãng mạn
-
Vẻ đẹp nên thơ đáng yêu của phố huyện. Phố huyện tuy nghèo nhưng vẫn đáng yêu.
+.
Buổi chiều ở phố huyện là buổi chiều hiu hắt, man mác buồn nhưng cũng không kém
phần thi vị với bản hoà âm thôn dã tạo nên từ âm thanh quen thuộc của tiếng
trống, tiếng ếch, tiếng muỗi…những hình ảnh, màu sắc đậm chất hội hoạ phương Đông:
hình ảnh phương Tây đỏ rực, áng mây hồng, dãy tre làng đen lại. Những gam màu tương
phản gay gắt. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng những cau văn nhẹ nhàng
với nhịp điệu du dương như ru hồn người vào một không gian buồn. Đó thực sự là
một bức hoạ đồng quê.
+.
Một đêm mùa hạ êm như nhung ru hồn người, ru hồn hai đứa trẻ vào một thế giới
thơ mộng.
" Phố huyện dưới ngòi bút của Thạch
Lam buồn nhưng không thê thảm, lặng lẽ nhưng vẫn ẩn một nét đẹp dân dã mang cái
hồn của quê hương Việt Nam .
TL đã chắt chiu những cái đẹp tiềm tàng ngay ở cuộc sống giản dị quanh mình.
-
Vẻ đẹp tâm hồn hai đứa trẻ tạo nên một nguồn ánh sáng êm dịu trong trẻo trong
suốt thiên truyện đầy bóng tối này. Đó là tâm hồn nhạy cảm tinh tế, giàu khát
vọng, đon hậu.
+.
Tâm trạng của Liên khi phố huyện lúc chiều tàn.
·
Buồn man mác trước giờ phút của ngày
tàn.
·
Liên đã cảm nhận được cái mùi riêng của đất,
của quê hương- một thứ mùi đặc biệt khi nhìn rác rưởi…những thứ còn xót lại
trên mặt đất sau một ngày phiên.
·
Tâm hồn đó đặc biệt nhạy cảm, gần gũi, gắn bó
với thiên nhiên, cảnh vật, phát hiện ra những biến thái tinh vi của thiên
nhiên; tâm hồn như đang hoà cùng thiên nhiên “qua kẽ lá của cành bàng”…
·
Chị em Liên thấy thương cho những kiếp
người nghèo nơi phố huyện, những con người đang chìm dần vào bóng tối.
"
Một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu tình yêu con người, yêu thiên nhiên, đất nước.
+.
Sống trong phố huyện ngèo, chị em Liên luôn muốn thoát khỏi cuộc sống nghèo
túng hiện tại bằng khát vọn tìm kiếm ánh sáng nhỏ nhoi và hai chị em không
ngừng mưo ước, hồi tưởng quá khứ tươi đẹp – Nó như một điểm tựa để chị em Liên
có thể vươn lên cuộc sống buồn tẻ này.
+.
Chính vì muốn thoát khỏi cuộc sống mòn mỏi,
tù túng nên ngày nào chị em Liên cũng cố thức đợi tàu trong một tâm trạng háo
hức và hồi hộp. Chị em Liên muốn sống nhịp sống sôi động cuối cùng của phố
huyện. Bởi đoàn tàu đem đến một cuộc sống khác hẳn với phố huyện nghèo - một
thế giới rực rỡ, vui vẻ và huyên náo. Đoàn tàu đã chở theo một mơ ước về cuộc
sống hạnh phúc, sung sướng hơn. Đoàn tàu là tia hồi quang của quá khứ.
" Dù sống trong nghèo khổ nhưng con
người không thôi mơ ước. Chính niềm mơ ước mong manh đã khiến cho người dân phố
huyện sống qua những ngày tối tăm.
-
Chất lãng mạn còn toát lên từ những câu văn nhẹ nhàng như giăng mắc vào lòng người
nỗi thương cảm ngậm ngùi xót xa cho những kiếp sống khắc khoải.
" Văn TL vừa có chất nhạc
vừa có chất hoạ đậm chất phương Đông. Chất nhạc êm ái trầm buồn lắng sâu.
III. Kết bài
-
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
-
Thành công của tác phẩm: hài hoà giữa chất hiện thực và lãng mạn.
Đề
4: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn cô
bé Liên trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
-
Giới thiệu tác giả TL.
-
HĐT là tác phẩm hay, tiêu biểu
cho phong cách TL: sức hấp dẫn của
tác phẩm là đã khơi dậy được “ những rung động cực điểm của một tâm
hồn thơ dại”. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của Liên và đó cũng là sức hấp
dẫn, chất thơ của tác phẩm.
II. Giải quyết vấn
đề
1.
Giới thiệu truyện, nhân vật
-
Giới thiệu truyện.
-
Giới thiệu nhân vật: Khác với những đứa trẻ nơi phố huyện, Liên và An đã từng sống ở HN
ồn ào, náo nhiệt nay phải theo mẹ
về vùng quê hẻo lánh. Tâm hồn Liên khác với những cô gái quê khác,
luôn có những rung động hết sức tinh tế. Cuộc sống của Liên và An
quẩn quanh trong gian hàng đơn điệu, nhưng cuộc sống quanh quẩn không
làm mất đi vẻ đẹp phong phú trong tâm hồn Liên.
2.
Phân tích
a).
Ngòi bút của TL tinh tế trong diễn tả diễn biến tinh vi trong tâm hồn
con người
-
Tâm hồn Liên thật nhạy cảm tinh tế:
+.
Cảm nhận được cảnh buổi chiều quê thật thấm thía.
+.
Cảnh chợ tàn.
"
nỗi buồn mong manh mơ hồ nhưng thấm sâu vào đáy tâm hồn con người.
+.
Mùi riêng của đất, của quê hương này. Tâm hồn Liên đặc biệt gắn bó,
yêu mến chốn quê hương thân thuộc.
+.
Bức tranh phố huyện vào đêm….
"
cảm giác mênh mông, bí ẩn. Bầu trời chứa đựng trong đó cái bí mật
thăm thẳm, cái huyền diệu của tuổi thơ.
b).
Tâm hồn giàu tình thương- nhân ái
-
Mặc dù phải bán quán hàng tạp hóa nhỏ…nhưng sự nghèo nàn, tù túng
không làm chai sạn tâm hồn Liên. Tâm hồn Liên vẫn rung lên niềm trắc ẩn
chân thành:
+.
Những đứa trẻ nghèo: Liên rất thương chúng nhưng chính chị cũng không
có tiền cho.
+.
Chị Tí: hỏi han chân thành, đồng cảm với cuộc đời khó khăn, nghèo
khổ, tù túng, quẩn quanh của chị.
+.
Thấu hiểu nỗi khổ của bác Siêu.
+.
Cụ Thi Điên tuy hơi sợ nhưng vẫn ân cần chu đáo, rót rượu đầy cho cụ.
+.
Đối với em: dành cho em những tình cảm yêu thương của người chị lớn
chăm sóc em rất ân cần chu đáo.
Không phải vô tình tác giả nhắc tới
quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn chị Tí. Quầng sáng ấy chính
là tình người ấm áp nơi đây tỏa ra, từ tâm hồn Liên và những người
nghèo khổ khác.
c).
Biết khao khát một cuộc sống có ý nghĩa hơn
-
Thể hiện ở ngay nỗi buồn man mác trong tâm hồn Liên trước giờ khắc
của ngày tàn. Liên buồn thấm thía trước cảnh chiều quê đơn điệu. Đó
là nỗi buồn của cái tôi có ý thức về cuộc sống, không khỏi
nuối tiếc về cuộc sống khi thời gian một đi không trở lại.
-
An dễ dàng chìm vào giấc ngủ của tuổi thơ trong khi Liên thao thức
chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua.
Hình
ảnh đoàn tàu chính là niềm mơ ước của chị em Liên về một cuộc sống
khác với cuộc sống buồn tẻ nơi đây.
(phân tích cảnh chờ tàu).
III. Kết thúc vấn
đề
HĐT
thực sự như một bài thơ để lại cảm xúc vấn vương, man mác trong lòng
người đọc. Trong hoàn cảnh 30 – 45 xã hội đầy rẫy những bất công, mâu
thuẫn, ngòi bút Thạch Lam vẫn biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp
tinh tế trong tâm hồn con người. Điều đó chứng tỏ TL là một tâm hồn
giàu yêu thương, giàu lòng nhân hậu biết bao với cuộc sống với con
người.
Chính
điều đó đã tạo nên giá trị lâu bền và sức hấp dẫn riêng biệt
của những trang viết TL.
Đề
5:
Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ để thấy rõ phong cách riêng, độc đáo của nhà văn TL.
-
Giới thiệu nhà văn TL- một phong cách riêng độc đáo.
-
HĐT là truyện ngắn hay, tiêu biểu
cho phong cách văn chương TL.
-
Câu chuyện dựng lên bức tranh hiện thực về xã hội Việt Nam trước
cách mạng với những số phận nhỏ bé, đáng thương của những kiếp
người và niềm khát khao đổi thay
của họ.
-
Sức hấp dẫn của truyện chính ở giá trị nghệ thuật độc đáo.
II. Giải quyết vấn
đề
1.
Cách dựng truyện
-
Đây là loại truyện tâm tình, truyện không có truyện, không khai thác
mâu thuẫn căng thẳng dồn nén, tích tụ mà đi sâu vào những chi tiết
bình dị, đời thường.
+.
Thời gian ngắn: một khoảnh khắc chiều tà và vào đêm.
+.
Không gian nhỏ hẹp: một góc phố
huyện nghèo nàn, hẻo lánh.
+.
Thế giới nhân vật ít.
-
Chi tiết đơn giản không có gì: cả truyện chỉ là những tâm tư, cảm
xúc của những đứa trẻ nghèo tạo nên những ám ảnh, day dứt về cuộc
sống nghèo nàn đơn điệu của xã hội Việt Nam trước cách mạng trong
đó số phận con người nhỏ bé, đáng thương.
+.
Cái đơn điệu, tẻ nhạt của cuộc sống ấy được cảm nhận qua bức tranh
thiên nhiên
Cảnh chiều: buồn tàn lụi (phân
tích)
+.
Cảm giác tiêu điều về cuộc sống: chợ
tàn (phân tích).
+.
Hình ảnh con người nơi đây: tác giả không miêu tả nhiều chỉ cần một
vài phiến ảnh nhưng cũng đủ làm nổi bật hình ảnh những kiếp người
lay lắt, nhỏ bé, đang phải sống cuộc sống buồn tẻ, đáng thương:
·
Chị Tí
·
Bác Siêu
·
Bác Xẩm
·
Bà cụ Thi điên
·
Tiền cảnh là chị em Liên
[
Văn TL không cần những mâu thuẫn gay gắt, nóng bỏng, không khiến cho
lòng người phải uất ức, căn hờn. Văn TL chỉ cần những chi tiết, hình
ảnh bình dị, chân thực nhưng gợi lên nỗi xót thương về cuộc sống
không lối thoát, về những kiếp
người nhỏ bé, đáng thương.
2.
Thủ pháp tương phản: ánh sáng và bóng tối
-
Câu chuyện mở ra trong lúc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối:
+.
Ánh sáng nhạt dần, yếu ớt không đủ soi tỏ cuộc sống xung quanh.
+.
Bóng tối dần chiếm lĩnh, bao phủ toàn tác phẩm.
"
tạo nên nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, tù đọng. Con người
thật nhỏ bé trước vũ trụ.
-
Trong bóng tối, ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu thực sự có ý nghĩa (phân tích). Nó đã đánh thức tâm
hồn con người: khao khát một sự đổi
thay, khao khát về một cuộc sống khác có ý nghĩa hơn.
"
Bóng tối tương phản với ánh sáng chính là một thành công độc đáo
của tác phẩm. Nó góp phần thể hiện chủ đề của thiên truyện.
3.
Khả năng miêu tả những rung động mong manh, tinh tế trong tâm hồn con
người
-
Cảm giác mong manh mơ hồ như cánh bướm non, xúc cảm trong sáng tinh tế
trong tâm hồn con người: diễn biến
tâm trạng của Liên.
-
Trong buổi chiều quê buồn thấm thía, Liên cảm nhận được từng bước đi
của thời gian. Cái lặng lẽ, man mác của buổi chiều quê như thấm vào
tâm hồn ngây thơ của chị:
+.
Tiếng trống… nhịp thời gian trôi
chảy.
+.
Tiếng ếch nhái… cảm giác thân thuộc
với cảnh đồng quê.
+.
Mùi vị đất cát quê hương…mùi riêng.
"
Chỉ bằng vài nét chân thực đã khơi gợi được cảm giác thân quen của
con người Việt. TL đã miêu tả diễn biến tâm trạng hết sức tinh tế
tạo sức gợi trong lòng người đọc.
-
Giữa cái mênh mông, yên lặng của quê hương Liên thả tâm hồn mình mơ
tưởng tới vũ trụ xa xanh với bầu trời đêm huyền bí đưa Liên trở về
với quá vãng chưa xa thật êm đềm. Đó là giây phút lòng người neo đậu
những cảm xúc thật yên tĩnh.
+.
Xúc cảm của Liên hướng tới việc chờ đợi đoàn tàu. Những trang viết
miêu tả tâm trạng thật tinh tế (phân tích ngắn gọn tâm trạng Liên chờ
tàu).
]
Hấp dẫn trong những trang văn của TL là ở khả năng khơi gợi những rung
động tinh tế như thế trong tâm hồn con người. Tác phẩm của TL đậm đà
tình cảm và rất giàu chất thơ, không phải ai cũng dễ dàng có được
những trang văn tinh tế như thế nếu không xuất phát từ tấm lòng nhân
hậu với cuộc sống, với con người.
4.
Văn TL đẹp như thơ: ngữ điệu nhỏ nhẹ, thủ thỉ, câu văn giàu hình ảnh,
nhạc điệu ru hồn người tạo nên những xúc cảm tinh tế mà trong sáng
-
Quên làm sao được những trang văn miêu tả chiều quê đẹp thế. Nhịp điệu
chậm rãi, êm ả, tạo ấn tượng mơ hồ về một quá vãng. Điều đó thể
hiện tâm hồn gắn bó rất sâu với quê hương, với ruộng đồng. Nó đã
gióng lên trong tâm hồn con người một nỗi niềm tha thiết “Chừng ấy con người trong bóng tối…của
họ”.
-
Văn đẹp như thơ góp phần thanh lọc tâm hồn con người, khiến cho những
rung động mơ hồ trở nên thấm thía hơn.
III. Kết thúc vấn
đề
Hai
đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
TL. Đó là một bài thơ trữ tình xót xa. Với những gì mà TL đã thể
hiện, HĐT sẽ sống mãi trong lòng
người đọc, giúp chúng ta biết nâng niu quí trong cái đẹp, dù nhỏ nhoi
ở xung quanh ta, làm tâm hồn ta trong sáng hơn.
Đề
5: Chất thơ trong truyện
ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam).
|
a. Mở bài:
- Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ
thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi đơn giản đến như
không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức ảnh
hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để
có thể neo đậu lâu bền trong lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng
mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại cùng với nó. Một trong những
yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính là chất
thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
- Truyện ngắn "Hai đứa
trẻ" ("Nắng trong vườn" - 1938) là một truyện ngắn giàu chất
thơ.
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và chất thơ trong
truyện ngắn:
- "Chất thơ": Tính
chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc,
tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những
rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
- Chất thơ trong truyện ngắn:
Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch
cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới
bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền
cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
- Một truyện ngắn (hoặc tác
phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không
đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một
trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người.
b.2. Chất thơ trong truyện ngắn
"Hai đứa trẻ":
b.2.1. Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm
trạng, tình cảm:
- ở nhân vật Liên có vẻ đẹp của
một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết, tự nhiên như chưa từng chịu một
tác động tiêu cực nào của cuộc sống:
+ Những rung động tinh tế trước
cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng nồng, âm ẩm bốc lên đã khiến Liên ngỡ đó
là mùi riêng của đất quê; không khí vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động
tâm hồn Liên để cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt
cô cũng như ngập đầy bóng tối của buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích
thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh để mơ mộng về con vịt theo sau ông
Thần Nông, về dòng sông Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm hồn Liên trong
sáng và nhạy cảm đến độ có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế
giới quanh mình: những con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua khe
cửa, từng loạt hoa bàng rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá khứ và mơ
mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu sinh không thể xoá
bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt hàng
ngày lại khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại không
nhiều, nhưng quá khứ luôn trở về trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất
"Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Chính nỗi nhớ
quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện với hình ảnh thực của
chuyến tàu đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để "sống giữa bao
nhiêu sự xa xôi không biết" mà chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối với những
cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống một cuộc sống nghèo khó, Liên
cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua song không
vì thế mà Liên đóng kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh mình. Nhìn
những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy
"động lòng thương" tuy chính chị cũng không có gì để cho chúng. Sẵn
có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút rượu của bà cụ Thi điên
dù trong em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ khi
phải đối diện với một người không hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm
ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm động như được "thanh lọc
tâm hồn" để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
- ở cái tôi Thạch Lam ẩn kín
sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn "Hai đứa tre"
bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không
thể không nhận thấy cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu
yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho
lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân vật, là sự ám ảnh của
tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc này
để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất
thơ để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
b.2.2. Vẻ đẹp của hình thức
nghệ thuật:
- Trong truyện, Thạch Lam đã
xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại vừa vô cùng
gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của Thạch Lam:
"Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở
mọi vật bình thường".
+ Không gian được lựa chọn
trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị và thôn quê
song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất phố.
+ Trong không gian êm ả, tĩnh
lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều chan chứa
chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy", đám mây "ánh hồng
như hòn than sắp tàn", tiếng trống thu không "vang xa để gọi buổi
chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió mát", vòm
trời "hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những con đom đóm
"bay là là trên mặt đât hay len vào những cành cây", bóng bác phở
Siêu "mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên
ngõ"…Tất thảy đều là những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc,
bình dị mà ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi nó
không chỉ hiện diện như một khái niệm mà như một trạng thái của sự sống đang
xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao động ấy vào tâm hồn con người.
Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ quê cũng
gợi nhớ bao điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và
tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá
mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc
quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Sức
gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của rất
nhiều người Việt.
- Truyện có những chi tiết được
lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những cảm xúc, cảm giác
và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ
bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối;
Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao để mà thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm
thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và An chờ đợi chuyến tàu đêm… Trong số
đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là đỉnh điểm của chất
thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là một thực tế, vừa
là một ảo ảnh trong cái nhìn non trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh
sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã chìm vào giấc ngủ song dư âm
của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để "gióng
lên cái gì đó còn ở tương lai" (Nguyễn Tuân). ánh sáng của đoàn tàu đã làm
cháy lên một thứ ánh sáng khác - ánh sáng của khát vọng da diết trong tâm hồn
những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá ra thứ ánh sáng này, tác
phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý.
- Mạch truyện của "Hai đứa
trẻ" rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của Thạch Lam:
"Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình
và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính
mình". Từ đó có thể thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên
hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm, rung động của tâm hồn con
người.
+ Truyện "Hai đứa
trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của những
tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để làm
được điều này, nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên - một cô
gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái có tâm hồn thuần khiết
và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện với sự đan xen,
song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ mà dường như, cái
nổi trội lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành trình tìm lại
những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang hiện diện trong thực tại - hình
ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch Lam có xu
hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác nhiều
khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước
ngoại cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài niệm
da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm giác xa xôi không biết…
- Để thể hiện thành công tất cả
những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình đặc sắc trong
lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu dàng,
hoà hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ nhẹ
nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng những chữ
to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần nhuyễn, tinh tế
để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch
Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng
hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch
Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch
nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh đêm
tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm
của đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng".
+ Thạch Lam đã sáng tạo ra một
thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống khẽ vang lên
trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu hiền của
tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ,
miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này liên kết với nhau như một dải lụa nhẹ
bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
+ Văn phong Thạch Lam rất bình
dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên
trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi
bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập
hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Đây là
một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh trắc tạo
điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ lại
niềm xúc động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua". Thạch
Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập, đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh
mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là ở độ nén của cảm xúc
mà nhà văn tạo ra trong những câu văn.
c. Kết luận:
- Truyện ngắn "Hai đứa
trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa
chất thơ - cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng
chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái
nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người…
- Với những gì được khai thác
và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện "Hai đứa trẻ" tựa như
một bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý nghĩa xã hội thì vẫn
"đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu"
(Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là cốt cách văn chương
của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng độc giả.