Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

Lý thuyết văn 12 - G

TÁC PHẨM “RỪNG XÀ NU” – NGUYỄN TRUNG THÀNH
ĐỀ 1
Đề bài
Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Mở bài
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.
Thân bài
HCST
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu  trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
Chủ đề
Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn.
Phân tích
Giới thiệu chung
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ở Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Hình ảnh Tnú hiện lên qua lời kể của cụ Mết bên sàn nhà ưng, bên bếp lửa bập bùng đầm ấm. Tnú là lứa cây xà nu lớn cường tráng và bất diệt “hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim vững chắc”. Tnú mang trong mình vẻ đẹp lý tưởng của người anh hùng trong thời kháng chiến chống Mỹ.
Lai lịch Tnú
Tnú là con của dân làng Xô Man. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Dân làng Xô Man đã nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh: “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như: tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già , những em nhỏ,… Sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Tính cách Tnú
Tnú là người gan góc, táo bạo và quả cảm, sớm giác ngộ cách mạng. Tính cách này được bộc lộ ngay từ nhỏ: anh dám cùng Mai xung phong vào rừng đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, bảo vệ anh Quyết. Bất chấp sự vây lùng, khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu anh Xút, treo cổ bà Nhan, những người đi nuôi giấu cán bộ CM. Đây là việc làm khó khăn, nguy hiểm nhưng Tnú và Mai làm rất tốt để dân làng mãi tự hào “năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”.
Khi được anh Quyết dạy chữ, Tnú “đã đi ba ngày đường đến núi Ngọc Linh mang đá trắng về làm phấn. Ham ánh sáng văn hóa, Tnú cố học chữ để sau này thay anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Học chữ thua Mai  nó nổi nóng “đập bể bảng nứa...”, bỏ ra ngoài suối ngồi suốt ngày rồi cầm hòn đá đập vào đầu, chảy máu ròng ròng’’. Hành động hơi nóng nảy nhưng bộc lộ ý chí và quyết tâm sắt đá của người có chí khí: vì không học được chữ nên trừng phạt cho đau để nhớ để cố gắng hơn.
Khi làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện, Tnú cũng bộc lộ phẩm chất táo bạo và dũng cảm, mạo hiểm hơn người: “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Giặc vây các ngả đường thì “Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây”. Học chữ thì tối nhưng đi đường rừng thì sáng lạ lùng.
Chưa hết, sự bất khuất, kiên cường đã được thể hiện qua lần bị giặc tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Lúc này, Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn, không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú nhanh trí “nuốt thư vào bụng’’và điềm tĩnh chỉ vào bụng trả lời câu hỏi của kẻ thù “cộng sản đây này’’. Đây không phải là câu trả lời mà là sự thách thức dũng cảm. Tnú quả là người hiện thân của sự trung thành, thủy chung tuyệt đối với CM.
 Lại một thử thách nữa đến với Tnú khi bọn giặc ở đồn Đắc Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, khi biết anh củng dân làng mài vũ khí chuẩn bị đồng khởi. Không bắt được Tnú, chúng bắt vợ con anh. Không thể cầm lòng trước sự tra tấn dã man Mai và đứa con chưa tròn tháng tuổi, anh đã đối đầu với chúng. Lòng căm thù đã biến “hai con mắt anh thành hai cục lửaanh đã bứt đứt hàng chục trái vả lúc nào mà không hay”. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Giặc  dùng giẻ tẩm dầu xà nu quấn vào mười đầu ngón tay và đốt: “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc” thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, răng anh đã cắn nát môi anh rồi, nhưng Tnú nhất quyết không kêu van, người cộng sản không kêu van, Tnú không kêu”. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương. Ngay cả gia đình nhỏ bé hạnh phúc với người vợ dịu hiền và đứa con thơ, vậy mà cuối cùng gia đình nhỏ ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Cái đau đớn mang trên thân xác và bi kịch gia đình của Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh bị bọn Mị - Diệm tàn sát không thương xót.
Vượt lên bi kịch, gia nhập quan đội
Tnú còn là biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí, là một người biết vượt lên đau đớn và bi kịch cá nhân. Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng bộ đội. Anh đi lực lượng để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, để trả thù nước, rửa thù nhà giết được giặc ở bất cứ nơi nào trên đất nước này cũng là giết được thằng Dục, kẻ thù của gia đình anh và quê hương anh”. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man.
Hình ảnh đôi bàn tay Tnú
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay  của anh.  Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả dấu ấn cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật Tnú.
Tính kỷ luật của Tnú
Chưa hết, Tnú còn là người có tính kỷ luật cao. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.
Nhận xét chung
Có thể thấy, h/ượng Tnú rất điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Tnú là hình tượng một nhân vật lí tưởng, đau thương mà bất khuất, là người con vinh quang của dân làng Xô Man được khắc họa bằng những đường nét giàu chất sử thi. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên.
Kết bài
Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dt Tây Nguyên và cũng mang những nét chung cho hình mẫu anh hùng dan tộc thấm đượm chất “sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi  và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác, các anh đã ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng). Đúng như lời thơ sau:
                                    Người hy sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời.
                                                                 (Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng).


ĐỀ 2
Đề bài
Phân tích tính sử thi của truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
Mở bài
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Tác phẩm đã đáp ứng được những đặc điểm của nền văn học Việt Nam 1945 – 1975: tính chất sử thi của nền văn xuôi cách mạng Việt Nam. Đọc tác phẩm, ta như nhìn thấy không khí của núi rừng Tây Nguyên hùng vỹ, âm vang cồng chiêng của các dân tộc nơi đây và đặc biệt bắt gặp không khí hào hùng của dân tộc trong những ngày kháng chiến chống Mỹ.
Thân bài
HCST
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu  trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
Khái niệm sử thi
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi, nhưng tính chất sử thi vẫn được người cầm bút mang vào các sáng tác và làm nên giá trị và sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng.
Giới thiệu chung
Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở tất cả các phương diện: Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện; Chủ đề mà tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam qua cuộc đời đầy bi tráng của nhân vật; Giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào hùng, ngân vang.
PT Tính sử thi
Chủ đề
Trước hết ở chủ đề mà tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam, những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hươngKhi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Tập thể anh hùng
Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong “Rừng xà nu” là xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong “Rừng xà nu” là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc đến cùng. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng: Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Đặc biệt là Tnú - cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình; nhưng  anh đã biến đau thương thành hành động, trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước. Hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú là hình ảnh nhiều ý nghĩa. Cuộc đời Tnú là cuộc đời chung của biết bao người trong thời đại ấy. Người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp, đậm chất “sử thi”. Có thể nói, chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của mọi người. Dân tộc VN dù có hy sinh, dù có mất mác nhưng không bao giờ lùi bước trước kẻ thù:
                                   Nước VN từ trong biển máu
                              Người vươn lên như một thiên thần.
                                                                                            (Tố Hữu).
Rừng xà nu hoành tráng, dữ dội
Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn “Rừng xà nu” là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện. Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và  kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hiện lên trước mắt người đọc là rừng cây xà nu ngút ngàn, hiên ngang trước nắng trước gió. Nguyễn Trung thành đã rất thành công khi chọn cây xà nu- một loại cây mang đậm dấu ấn Tây Nguyên để làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, núi rừng Tây Nguyên. Nhà văn đã tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này bằng cách đưa người đọc đến một cảm giác mới lạ về một hương vị dậy lên từ rừng núi, thiên nhiên chốn cao nguyên. Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát nhưng xà nu vẫn vươn lên với  sức sống mãnh liệt. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến traanh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta. Cây xà nu, rừng xà nu là biểu tượng cho con người ở Tây Nguyên:
                               “Một cây ngả cả rừng cây lại mọc
                                  Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
                                                                                       (Nguyễn Trung Thành).
Nghệ thuật tác phẩm đậm chất sử thi.
Tính sử thi của “Rừng xà nu” còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
   Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
Nhận xét chung
Khuynh hướng sử thi như thế vừa có cội nguồn từ khuynh hướng chung của hiện tượng văn học sau cách mạng, vừa được tạo nên từ không khí sử thi của truyện ngắn của dân tộc sau những ngày đánh Mĩ mà Nguyễn Trung Thành từng gắn bó chiến đấu sâu sắc với một chương sử thi đậm đặc như thế truyện ngắn rừng xà nu xứng đáng được coi là một pho sử thi của thời đại. Từ nội dung tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật đến các hiện tượng, các phương diện hình thức nghệ thuật, truyện ngắn rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đều đậm đặc một chất sử thi.
Nguyễn Trung Thành sử dụng đặc biệt nhiều các phép chuyển nghĩa, các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hoá nhất là khi thể hiện hình tượng xà nu. Lời văn của tác phẩm rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết nhất là lối cấu trúc vòng tròn với hình tượng xà nu trở đi trở lại ở đầu và cuối tác phẩm. Cách sử dụng ngôn ngữ như thế cũng mang dấu ấn của thể loại sử thi cũng đem lại cho tác phẩm nhiều chất sử thi.
Kết bài
Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được tác giả thể hiện sâu sắc trong tác phẩm. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc rất  xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng. Chính vì thế mà truyện ngắn này đậm đà chất sử thi.

ĐỀ 3
Đề bài
Phân tích hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Mở bài
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Bên cạnh tập thể anh hùng, Nguyễn Trung Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình tượng cây xà nu. Chính hình tượng cây xà nu đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng đậm chất sử thi, lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất kiên cường. Đọc tác phẩm này, người đọc nhận ra hình tượng cây xà nu đã trở thành một hình tượng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, gắn bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt của dân làng Xô Man.            
Thân bài
HCST
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu  trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
Chủ đề
Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn.
Phân tích
Giới thiệu chung
Cây xà nu là hình tượng nổi bật xuyên suốt trong tác phẩm. Mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là cảnh rừng xà nu “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, là cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm tính sử thi. Ngoài ra, trong truyện ngắn “Rừng xà nu” gần 20 lần nhà văn nói đến cây xà nu ở nhiều góc độ khác nhau: rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu,
Ý 1
Cây xà nu còn gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân làng Xô Man cả trong sinh hoạt hằng ngày: “đuốc xà nu Tnú soi cho Dít dần gạo, khói xà nu xông bảng nứa cho Tnú và Mai học chữ để sau này làm cán bộ”. Cây xà nu còn tham gia vào các sự kiện trọng đại của buôn làng  “giặc đốt hai bàn tay Tnú bẳng giẻ tẩm nhựa xà nu, đuốc xà nu soi sáng xác của những tên giặc trong đêm đồng khởi”.
Ý 2
Cây xà nu là loại cây đặc biệt sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp”. Cây xà nu ham ánh sáng mặt trời, cứng cáp và vươn mình lên như thế có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng. Chính vì vậy, nhà văn đã chọn một loại cây họ thông mọc nhiều ở Tây Nguyên, gỗ và nhựa đều rất quý, rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho khí phách anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất.
Ý 3
Rừng xà nu chịu  hủy diệt của đế quốc Mĩ, là chứng nhân của tội ác quân thù. Mở đầu tác phẩm là hình tượng hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những mảnh đạn của giặc giày xéo: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bám lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn. Năm ba hôm thì cây chết. Rõ ràng, rừng xà nu là biểu tượng cho sự mất mát, đau thương của cả dân tộc trong chiến tranh.
Rừng xà nu bị tàn hại, dân làng Xô Man của Tnú cũng chịu chung số phận “Làng ở trong tầm đại bác của giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở lại gà gáy. Con người của làng Xô Man cũng như con người Tây Nguyên bị giặc Mỹ đến bao vây, lùng sục, khủng bố dã man làm cho đầu rơi, máu chảy “giặc treo cổ anh Xút ở cây vả đầu làng; chúng chặt đầu bà Nhan treo đầu súng; Mai và đứa con chưa đầy tháng tuổi bị giặc dùng cây sắt đập vào người cho đến chết; Tnú bị chúng đốt mười đầu ngón tay”. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó, tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh nhân dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Ý 4
Rừng xà nu  còn là biểu tượng về phẩm chất, truyền thống đấu tranh của dân làng Xô Man. Tuy bị tàn phá dữ dội nhưng rừng xà nu cũng như dân làng Xô Man vẫn có sức sống mãnh liệt không gì có thể tiêu diệt được Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời…Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành trên thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã…. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình để che chở cho dân làng’’.
Cũng như con người của làng Xô Man hiên ngang trong lửa đạn, người người, lớp lớp, thế hệ này ngã xuống tức thì thế hệ sau tiếp nối, quật khởi đứng lên: Anh Quyết hi sinh thì có Tnú thay thế đảm nhiệm công việc mà anh Quyết để lại; Mai nằm xuống thì có Dít thay; thấp thoáng bóng dáng dũng cảm của Tnú ngày xưa thì có bé Heng hôm nay cũng rất thạo đường và rất gan dạ, thích làm bộ đội. Và đặc biệt cụ Mết là linh hồn, sức quật khởi của làng Xô Man được ví như “một cây xà nu lớn”. Chính vì thế, khi gặp Tnú, cụ Mết đã hùng hồn khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức “không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này. Đây là sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi:                            “Một cây ngả cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nguyễn Trung Thành).
Có được điều này bởi người dân làng Xô Man luôn hướng về Đảng, về ánh sáng lí tưởng Cách mạng nên  họ thay nhau để nuôi giấu cán bộ, thanh niên bị cấm thì người già thay, người già bị cấm thì trẻ con thay, bởi vì họ quan niệm “Đảng còn, núi nước này còn”. Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:
                         “Gươm nào chia được dòng Bến Hải
                          Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
                          Căm hờn lại giục căm hờn
                         Máu kêu trả máu đầu van trả đầu
Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước.
Nhận xét chung
Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành, đã được tác giả miêu tả công phu, đậm nét, xuyên suốt chiều dài tác phẩm tạo nên không gian nghệ thuật đậm đà chất Tây Nguyên. Cùng với việc sử dụng biện pháp so sánh (như mũi tên lao thẳng lên bầu trời,…) và nhân hoá (bị thương, chặt đứt ngang nửa thân mình, ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng,…) rất đặc sắc đã làm cho cây xà nu và rừng xà nu hiện lên một cách sống động hùng tráng đậm chất sử thi trước mắt người đọc. Hình tượng cây xà nu thật sự là một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tả của tác giả.
Song hình tượng cây xà nu còn là ẩn dụ về con người làng Xô Man, con người Tây Nguyên trong những ngày đành giặc cứu nước với sức sống bền bĩ và kiêu hùng. Cho dù cuộc chiến tranh khốc liệt kia đã đi qua, nhưng hình tượng nghệ thuật ấy vẫn rất giàu sức sống, vẫn như một lời nhắc nhở về những phẩm giá tốt đẹp của con người. Qua hình tượng này, người đọc không chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong những tháng năm chống Mĩ. Dáng đứng cây xà nu là dáng đứng VN anh hùng.
Kết bài
Trong bài viết “Về truyện ngắn Rừng xà nu”, tác giả đã tâm sự: “Ngay từ năm 1962, trên đường vào miền Nam công tác, đến tỉnh Thừa Thiên, giáp Lào, tôi được chứng kiến những rừng xà nu bát ngát xanh tít tận chân trời. Đấy là những cây họ thông, hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ nhựa ứa ra, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi”. Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn cảm hứng cho tác giả ba năm sau (1965) tạo dựng lên hình tượng cây xà nu đặc sắc này. Nhìn chung rừng xà nu và con người làng Xô Man tuy hai mà một, mang ý nghĩa biểu tượng rất cao đẹp và sâu sắc. Nét đặc sắc của truyện ngắn này chính là ở chỗ nhà văn đã thể hiện sự sinh tồn mạnh mẽ của dân tộc cho dù chiến tranh có tàn khốc thế nào cũng không thể hủy diệt được.
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
ĐỀ 1
Đề bài
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Mở bài
Tô Hoài là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông cũng đa dạng về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật tâm đắc của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị để qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc
Thân bài
HCST
Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài, được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với đồng bào dân tộc ít người, hiểu được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tô Hoài có thêm chất liệu và cảm hứng để sáng tác thành công tập “Truyện Tây Bắc” nói chung và “Vợ chồng A Phủ” nói riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
Phân tích
Giới thiệu chung
Nếu trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài, “Vợ chồng A Phủ” là truyện thành công nhất, thì trong “Vợ chồng A Phủ”, nhân vật Mị là nhân vật máu thịt nhất. Ở Mị có hai mặt  tưởng như đối lập nhưng lại rất thống nhất: thứ nhất, Mị bị chà đạp nặng nề, cam chịu đến mất cả sự sống; thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mị vẫn tiềm ẩn một sức sống để từ đó vươn dậy và cuối cùng là tháo củi sổ lồng tìm lại lẽ sống cho mình. Mị là hình ảnh tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ nghèo khổ dưới ách thống trị của bọn quan lại phong kiến miền núi.
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, đắng cay, bất hạnh.
 Mị - cô gái đáng yêu
Mị là cô gái vùng dân tộc Mèo xinh đẹp, có tài thổi sáo “Mị uốn chiếc lá trên môi thổi lá hay như thổi sáo”. Mà tài năng âm nhạc bao giờ cũng báo hiệu sự sống tràn trề của vẻ  đẹp tâm hồn. Mị cũng có trái tim sôi nổi và khao khát yêu thương. Đã bao lần cô bồi hồi trước âm thanh của những buổi hẹn hò. Mị cũng đã từng được nhiều người yêu “có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này đến núi khác… Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị cũng là cô gái chăm chỉ và hiếu thảo. Đáng lý ra với những phẩm chất như vậy, Mị phải có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng vì gia đình nghèo, Mị không có cuộc sống như mình mong muốn.
Mị con dâu gạt nợ của nhà thống lý Pá Tra - nạn nhân của thần quyền






















Sức sống tiềm tàng của Mị
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Món nợ nhà giàu truyền kiếp đã cướp trắng tuổi trẻ dạt dào khát vọng. Mị bị cướp đoạt tình yêu đã đành, đến lễ hỏi cưới xin cũng không có “tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. Mị chính là nạn nhân của sự đầu độc áp chế về mặt tinh thần. Bọn thống lý Pá Tra đã lợi dụng thần quyền, óc mê tín để bắt người nô lệ phải cam chịu “nó đã bắt mình về trình ma nhà nó thì chỉ đợi ngày chết ở đây thôi”.
Danh nghĩa là con dâu nhà thống lý giàu có, sung sướng nhưng thực chất Mị là một nô lệ, một thứ tù khổ sai chung thân. Đời Mị chỉ gắn với những công việc nối nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế mà làm đi làm lại “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi gì nữa mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẻ ra trước mặt. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay. Đến mùa thì đi nương bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”. Thân phận Mị còn thua cả con trâu, con ngựa “Con trâu, con ngựa làm còn có lúc đêm nó được đứng gãi chân nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”.
Từ đấy, Mị sống cam chịu nhẫn nhục đến tê liệt cả ý thức phản kháng, sống mà như đã chết, buông xuôi cho số phận: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa,… ”. Mị co mình lại né tránh tất cả trong cô độc tuyệt đối “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và Mị cũng không mong đợi bất cứ điều gì, không có ý niệm cả không gian và thời gian. Mị về làm dâu nhà thống lý đã mấy năm, từ năm nào cô cũng không nhớ cũng không còn ai nhớ. Từ đó, đời cô gắn liền với căn buồng. Hình ảnh căn buồng được miêu tả nhiều lần trong tác phẩm: “ căn buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng, mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Hình ảnh căn buồng có ý nghĩa hiện thực. Nó như một thứ ngục thất tinh thần giam hãm thân xác Mị, cách ly tâm hồn cô với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của Mị. Rõ ràng, Mị đang sống cuộc sống tinh thần mòn mỏi, tàn lụi.     
Có thể thấy, Tô Hoài đã diễn tả chân thực nỗi cực nhọc về thể xác của Mị để nói lên tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cái chế độ ấy đáng lên án, nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người lao động.
Nhưng cũng có lúc hoàn cảnh không thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm hồn Mị không hoàn toàn giá băng. Lòng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Trong truyện, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy ba lần.
Lần 1
Ở lần thứ 1, đó là sau khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý, có đến mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Rồi không thể chịu đựng Mị đã trốn về nhà chào bố với nắm lá ngón tự tử. Trong hoàn cảnh đó, chết cũng là một cách để chống lại số phận. Niềm khao khát được sống như một con người đã khiến cô không chấp nhận thân phận nô lệ. Tìm đến cái chết lúc này là dấu hiệu của sự phản kháng.
Lần 2 Trong đêm tình mùa xuân
Mùa xuân là mùa tết, mùa của tình yêu hạnh phúc. Ngoại cảnh tác động vào nội tâm của Mị đã đánh thức tâm hồn khao khát lứa đôi của Mị. Hơi men và tiếng sáo là tác nhân đánh thức lòng ham sống của Mị. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát” trong trạng thái khác thường. Cách uống “ừng ực từng bát” như thế dường như cô đang uống đắng cay của cuộc đời mình vì hơi men giúp Mị quên hiện tại cay đắng và tiếng sáo làm Mị phơi phới trở về ngày trước. Mị ý thức được bản thân mình, cõi lòng đã phơi phới trở lại, nhưng một ý nghĩ rất lạ lùng mà chân thực xuất hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên nhưng chính là niềm khao khát hồi sinh.
Lúc này “trong lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm ngày tết trước”. Mị tìm ra lý lẽ để đấu tranh cho quyền được sống. Lập luận ngày càng chặt chẽ từ thấp đến cao “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi Mị và A Sử không có lòng với nhau”. Và hành động đầu tiên có ý nghĩa như sự thức tỉnh đó là “Mị thắp sáng ngọn đèn, rồi Mị quấn tóc lại ,lấy cái váy hoa chuẩn bị đi chơi như ngưòi tự do”. Đây là ý nghĩ hết sức táo bạo, chứng tỏ khát vọng tự do đã lên đến đỉnh điểm và ngày càng mãnh liệt.
Nhưng ý định của Mị không thực hiện được, khát vọng sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt. A Sử trở về, phát hiện ra ý định của Mị nên đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Rồi hắn còn quấn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được. Đây là một hành động vô cùng độc ác, dã man và ích kỉ, tàn tệ của A Sử, một trong những nhân vật đại diện cho thế lực phong kiến ở đây. Mặc dù thân thể bị hành hạ nhu thế, nhưng tâm hồn Mị vẫn còn sống với những khát vọng cháy bỏng. Mị vẫn nghe tiếng sáo và có cảm tưởng như đang bước đi. Nhưng bị dây trói thít lại đau nhức từng cơn “Mị không còn nghe tiếng sáo nữa và chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Đau đớn làm Mị trở về với thực tại và ý thức được được rằng thân mình không bằng con ngựa. Khi cận kề với cái chết, Mị lại cảm thấy sợ chết “Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết”. Điều này rất quan trọng bởi đây là cái tiềm tàng của tình yêu cuộc sống nơi Mị. Có thể thấy, tâm hồn Mị câm lặng mà ngầm chứa một sức sống lạ lùng. Đó cũng chính là giá trị  nhân đạo của tác phẩm.
Lần 3
Trong đêm mùa đông ở rẻo cao giải thoát cho A Phủ
Đây là đoạn văn hay nhất trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn này chứng tỏ ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài rất sắc sảo. Nhân vật của ông luôn là con người tâm trạng để tiến tới một hành động. Đoạn văn này được miêu tả rất khéo léo.
Đêm đầu tiên, Mị nhìn thấy A Phủ bị trói vào cột nhà “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu như A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Cả mấy đêm như vậy, tâm hồn Mị có vẻ dửng dưng vô cảm bởi vì việc trói người được lặp đi lặp lại thường xuyên ở nhà thống lí Pá Tra: ngày xưa chị dâu Mị bị trói, Mị cũng bị trói và hôm nay đến lượt A Phủ. Hình ảnh dây trói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sợi dây trói buột của xã hội phong kiến đối với những người lao động nghèo.
Nhưng rồi một đêm, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay và qua ánh lửa bập bùng, Mị thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, đây là biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng của A Phủ. Mị bắt đầu xúc động. Mị nhớ lại chính mình ngày trước, cũng từng bị trói đến chết ở đây “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Từ sự thật trước mắt và bản thân,Mị nhận thức được bản chất của bọn thống trị “chúng nó thật độc  ác”. Và Mị nhận ra cái chết của A Phủ sẽ thật là đau đớn và vô lí. Lúc này, Mị đang đứng giữa hai con đường: một là cam chịu, hai là phản kháng. Cuối cùng tinh thần phản kháng đã chiến thắng, Mị đi đến một hành động táo bạo là “cắt dây cởi trói cho A Phủ”. Nhưng nếu Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ thì ai sẽ là người thay thế A Phủ chịu trói vào cái cột ấy.Vì thế Mị có thêm một quyết định nữa là chạy theo A Phủ “A Phủ cho tôi đi với …ở đây thì tôi chết mất”. Như vậy, hành động cởi trói cho A Phủ cũng là cởi trói cho chính mình . Ở đây cùng một lúc, Mị đã cắt đứt hai sợi dây trói: sợi dây trói cụ thể và sợi dây trói vô hình. Qua việc cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài muốn đặt ra một vấn đề, chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới có thể thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau để cùng giải thoát cho chính mình.
Nhận xét chung
Qua cuộc đời bị đoạ đày tàn lụi của Mị, tác giả đưa ra bản cáo trạng lên án thế lực phong kiến xấu xa chà đạp lên con người. Đồng thời thể hiện lòng cảm thông sâu sắc với những kiếp sống bé mọn. Qua diễn biến tâm lý của nhân vật Mị, ta thấy lòng xót thương, đồng cảm của tác giả với ngọn lửa sống khi cháy sáng, khi âm ỉ nhưng chưa bao giờ tắt trong lòng trái tim con người cơ cực. Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.
Kết bài
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động, đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng A Phủ”.

ĐẾ 2
Đề bài
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Mở bài
Tô Hoài là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đa dạng về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ chồng A Phủ” được xemtác phẩm thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật tâm đắc của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị. Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài và chi tiết đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.
Thân bài
HCST
Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài, được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với đồng bào dân tộc ít người, hiểu được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tô Hoài có thêm chất liệu và cảm hứng để sáng tác thành công tập “Truyện Tây Bắc” nói chung và “Vợ chồng A Phủ” nói riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
Phân tích
Giới thiệu chung
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Nhưng vì món nợ nhà giàu truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu, con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm vô hồn "càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Sống buông xuôi, sống mà như đã chết. Nhưng cũng có lúc hoàn cảnh không thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm hồn Mị không hoàn toàn giá băng. Lòng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Và đó chính là đêm tình mùa xuân.
Khung cảnh ngày xuân  nhân tố tác động
sâu sắc đến Mị
Xuân qua rồi xuân trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa ngô đã thu hoạch xong, gió và rét dữ dội thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay , tiếng sáo thổi ngoài đầu núi rủ bạn đi chơi. Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị "Riêng mình nào biết có xuân là gì?". Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị đã được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động, phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước.
Âm thanh tiếng sáo



Ban đầu, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi gọi bạn đi chơi xa xa, ở ngoài đầu ngõ: “Tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Mị rung lên những tình cảm lạ và lẩm nhẩm hát theo bài hát người đang thôi sáo:
                                           "Mày có con trai con gái
                                             Mày đi làm nương
                                             Ta không có con trai con gái
                                             Ta đi tìm người yêu"
Tiếng sáo gọi bạn tình "văng vẳng" trong tai. Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh tâm hồn Mị. Đây có lẽ là dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Cô bắt đầu nghe được âm thanh của sự sống và đang dần dần hoà nhập vào cuộc sống. Ttiếng sáo chính là tác nhân đánh thức lòng ham sống của Mị.
Uống rượu và sống về kỉ niệm
Tiếp đến, Mị tìm đến với rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát” trong trạng thái khác thường. Cách uống “ừng ực từng bát” như thế dường như cô đang uống đắng cay của cuộc đời mình, uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Bởi hơi men giúp Mị quên hiện tại cay đắng. Rồi say rượu "lịm mặt", Mị hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp của thời con gái: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị tự hào về tài năng của mình, hãnh diện về một thời tươi đẹp xưa kia. Mị bắt đầu ý thức được bản thân mình, cõi lòng đã phơi phới trở lại, nhưng một ý nghĩ rất lạ lùng mà chân thực xuất hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lòng ham sống trào dậy đầu  tiên trong ý nghĩ muốn chết ngay, bởi Mị không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu "vẫn lửng lơ bay ngoài đường". Những cảm xúc trong tâm hồn Mị đang dần sống lại. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Nghịch lí trên nhưng chính là niềm khao khát được sống.
Chuẩn bị đi chơi
Lúc này “trong lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm ngày tết trước”. Mị tìm ra lý lẽ để đấu tranh cho quyền được sống. Lập luận ngày càng chặt chẽ từ thấp đến cao “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi Mị và A Sử không có lòng với nhau”. Lúc này, Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Những suy nghĩ sục sôi trong tâm tư đã dẫn Mị đến hành động: Mị vào buồng, lần này không phải để nhìn qua "cái lỗ vuông" để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngờ. Hành động đầu tiên có ý nghĩa như sự thức tỉnh đó là “xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo chuẩn bị đi chơi Tết như một người tự do”. A Sử nhìn, Mị "cũng không nói" hay không thèm nói? Đây là ý nghĩ và hành động hết sức táo bạo. Hàng loạt hành động "nổi loạn" diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang "rập rờn" trong đầu Mị. Tất cả chứng tỏ khát vọng tự do đã lên đến đỉnh điểm và ngày càng mãnh liệt.
A Sử ngăn cản ý định của Mị
Nhưng ý định của Mị không thực hiện được, khát vọng sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt. A Sử phát hiện ra ý định của Mị nên đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Rồi hắn còn quấn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được. Đây là một hành động vô cùng độc ác, dã man và ích kỉ, tàn tệ của A Sử, một trong những nhân vật đại diện cho thế lực phong kiến ở đây. Mặc dù thân thể bị hành hạ như thế, nhưng tâm hồn Mị vẫn còn sống với những khát vọng cháy bỏng. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô  Hoài như đã "nhập hồn" vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị "đứng im lặng". Hơi rượu còn "nồng nàn" như nâng đỡ tâm hồn Mị. Mị "vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Mị vùng bước đi, lòng "bồi hồi" theo tiếng sáo: "Em không yêu quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào...".
Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục "tay chân đầu không cựa được". Mị "thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa" khi nghe tiếng ngựa "gãi chân", nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Mị nghĩ đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã "dỡ vách ra rừng chơi". Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi trong trạng thái lúc mê lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị "nồng nàn tha thiết nhớ". Bị trói đứng suốt đêm, Mị "bàng hoàng tỉnh" cho đến lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo - Không một tiếng động - Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà "khốn khổ sa vào nhà quan"; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng Ngài "một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng". Mị sợ hãi "cựa quậy" xem mình còn sống hay chết, dây trói siết chặt lại "đau dứt từng mảnh thịt". Điều này rất quan trọng bởi đây là cái tiềm tàng của tình yêu cuộc sống nơi Mị. Có thể thấy, tâm hồn Mị câm lặng mà ngầm chứa một sức sống lạ lùng. Đó cũng chính là giá trị  nhân đạo của tác phẩm.
Tiếng sáo
         Ở đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài nhiều lần nhắc đến tiếng sáo. Vào một ngày Tết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Mị chợt nhận ra những đêm tình mùa xuân đã tới “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính âm thanh tiếng sáo dìu dặt đã làm cho Mị nhớ lại “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Lúc Mị muốn chết thì “Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Có lẽ tiếng sáo gọi bạn này đã tiếp thêm sức mạnh cho Mị hành động. Mị chuẩn bị đi chơi khi “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Khi bị A Sử trói đứng ở cột nhà “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”…. Âm thanh tiếng sáo vốn là biểu tượng của mùa xuân, của tình yêu, của sự sống. Mị nghe được âm thanh này chính là Mị nghe được âm thanh của cuộc sống, của hạnh phúc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như lay gọi, như vỗ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.
Nhận xét chung
Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh: Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát; cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi; cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ. Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc.
Kết bài
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động, mà điển hình là Mị. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng A Phủ”.

ĐỀ 3

Đề bài
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông giải thoát cho A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Mở bài
Tô Hoài là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đa dạng về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ chồng A Phủ” được xemtác phẩm thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật tâm đắc của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị. Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài và chi tiết miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Đây là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống của Mị. Qua đó, ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thân bài
HCST
Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài, được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với đồng bào dân tộc ít người, hiểu được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tô Hoài có thêm chất liệu và cảm hứng để sáng tác thành công tập “Truyện Tây Bắc” nói chung và “Vợ chồng A Phủ” nói riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
Phân tích
Giới thiệu chung
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Nhưng vì món nợ nhà giàu truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu, con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm vô hồn "càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Sống buông xuôi, sống mà như đã chết.
Nhưng cũng có lúc hoàn cảnh không thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm hồn Mị không hoàn toàn giá băng. Lòng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Sau đêm tình mùa xuân, đúng một năm sau, đêm mùa đông giải thoát cho A Phủ. Đây là đoạn văn hay nhất trong tác phẩm. Đoạn này chứng tỏ ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài rất sắc sảo. Nhân vật của ông luôn là người tâm trạng để tiến tới một hành động. Đoạn văn này được miêu tả rất khéo léo.

A Phủ là một thanh niên có thân phận như Mị, vì đánh A Sử nên bị phạt vạ phải ở cho thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để hổ ăn mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Không gian lạnh lẽo mà lòng người cũng lạnh. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, Mị sẽ chết héo. Đêm đầu tiên, Mị nhìn thấy A Phủ bị trói vào cột nhà “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác đứng đấy cũng thế thôi”. Cả mấy đêm như vậy, tâm hồn Mị có vẻ dửng dưng vô cảm với những gì diễn ra chung quanh. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Thản nhiên cũng bởi việc trói người lặp đi lặp lại thường xuyên ở nhà thống lí Pá Tra: ngày xưa chị dâu Mị bị trói, Mị cũng bị trói và hôm nay đến lươt A Phủ. Hình ảnh dây trói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa đặc trưng. Đó là sợi dây trói buộc của xã hội phong kiến đối với những người lao động nghèo.

Nhưng rồi một đêm, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay và qua ánh lửa bập bùng, Mị thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Đây là biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng A Phủ. Mị bắt đầu xúc động. Mị nhớ lại chính mình ngày trước cũng từng bị trói đến chết ở đây “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Từ sự thật trước mắt và bản thân, Mị nhận thức được bản chất của bọn thống trị “chúng nó thật độc ác”. Và Mị nhận ra cái chết cuả A Phủ sẽ thật sẽ thật đau đớn và vô lí.  Mị phảng phất nghĩ gần, nghĩ xa: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?” Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Trong lòng Mị trỗi dậy lòng thương người cùng cảnh ngộ.

Lúc này, Mị đang đứng giữa hai con đường một là cam chịu, hai là phản kháng. Cuối cùng tinh thần phản kháng đã chiến thắng, Mị đi đến một hành động táo bạo là “cắt dây cởi trói cho A Phủ”. Rõ ràng, tình thương lớn hơn cái chết. Nhưng nếu Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ thì ai sẽ là ngừơi thay thế cho A Phủ chịu trói vào cái cột ấy. Vì thế Mị có thêm một quyết định nữa là chạy theo A Phủ “A Phủ cho tôi đi với… ở đây thì tôi chết mất”. Như vậy, hành động cởi trói cho A Phủ cũng là cởi trói cho chính mình. Ở đây cùng một lúc, Mị đã cắt đứt hai sợi dây trói: sợi dây trói cụ thể và sợi dây trói vô hình.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Qua việc cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài muốn đặt ra một vần đề, chỉ có những ngừơi cùng cảnh ngộ mới có thề thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau để cùng giải thoát cho chính mình.
Nhận xét chung
Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị - cởi trói cho A Phủ - có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam” ( Trần Đình Sử )
Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đoạ đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Nhà văn phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người mới có được cái nhìn nhân đạo sâu sắc.
Kết bài
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động, mà điển hình là Mị. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng A Phủ”.