Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

BẾP LỬA” – MỘT BẾP TÌNH ẤM ÁP (Mộc Nhân)



Một mùa xuân lại đến - xuân khắp cả đất trời và xuân trong lòng người. Xuân không chỉ mở ra những gì tươi đẹp, rạo rực mà còn gợi lại những nghĩa tình quá khứ. Lúc này đây, chúng ta hãy mở hồn để hồi tưởng về những gì thân thương, ấm áp của quê hương, gia đình, về những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, thân thương và chứa chan tình nghĩa.
Dòng hồi tưởng có thể đến từ một bếp lửa, một bài thơ… Có lẽ nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng xa quê đi học tại Liên Xô đã viết bài thơ “Bếp lửa” trong dòng cảm xúc ấm lòng như thế. Những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu trong tâm thức của nhà thơ vừa sâu sắc, thấm thía vừa quen thuộc với mọi người.

Làng quê Việt Nam từ bao đời nay đã đi vào tiềm thức của chúng ta qua hình ảnh bờ tre, gốc rạ, bếp lửa, ao làng. Đi xa, nhớ quê, ai mà chẳng khắc khoải nhớ nhung những hình ảnh ấy. Bằng Việt đang du học tại Liên Xô, nỗi nhớ quê, nhớ nhà của tác giả được khơi gợi từ dòng hồi tưởng về  hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp :
          “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
 Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
 Điệp ngữ “một bếp lửa” đặt ở hai dòng thơ đầu bài thơ diễn tả cảm xúc trào dâng trong dòng hồi tưởng ấy. Đó là hình ảnh bếp lửa gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình chập chờn, ẩn hiện, lung linh trong sương sớm. Từ hình ảnh ấy, nhà thơ liên tưởng đến bàn tay người bà kiên nhẫn, khéo léo nhóm “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” bằng tấm lòng che chở, ôm ấp, nồng ấm, yêu thương. Nhớ đến bếp lửa ấy, lòng cháu trào dâng cảm xúc: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm qua bao nắng mưa làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào lòng người, tiếp tục mở ra dòng hồi tưởng, làm sống dậynhững kỉ niệm tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn: bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945, cả gia đình phải xiêu tán để:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !”
 Cái mốc thời gian “lên bốn tuổi” gắn với không gian bếp lửa có “khói hun nhèm mắt cháu” và hoàn cảnh “đói mòn đói mỏi” mới thấy tuổi thơ tác giả xiết bao cơ cực xót đau. Hai chi tiết “mùi khói” và “khói hun” gợi tả lại ấn tượng đậm nét, có sức lay động về bếp lửa trong cuộc sống, tâm hồn tuổi thơ, vừa biểu hiện thấm thía những tình cảm da diết, xót xa, thương mến đến mức:“Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Thời gian đã lùi vào quá khứ nhưng dường như cái cay vì khói bếp vẫn còn hằn sâu trong tâm khảm trong hồn người, trở thành cái cay của cảm xúc trào dâng mỗi khi nhớ đến kỉ niệm xưa.
Nhiều kỉ niệm về bà cháu và bếp lửa sống lại theo từng dòng thơ: “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa…”  đó là khoảng thời gian không dài của đời người nhưng là những năm tháng tuổi thơ nhọc nhằn nhưng đáng nhớ của tác giả:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà , bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
          Thật xúc động biết bao, bà không chỉ là người trông cháu mà còn là người bảo ban, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ chăm chút thể xác cháu mà còn nuôi dưỡng tâm hồn để cháu trưởng thành theo năm tháng.
Câu chuyện tuổi thơ của cháu âm vang trong tiếng chim tu hú. Quá khứ như một đoạn phim quay chậm với những cận cảnh thì gợi buồn thương, còn toàn cảnh thì mênh mông xa vắng,  nhưng ấm áp tình người. Trong đoạn phim ấy, tiếng chim tu hú là âm nền chủ đạo với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau: Lúc thì văng vẳng mơ hồ trong không gian đất trời mênh mông gợi bao thương nhớ:“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà…”; lúc thì gần gũi như đồng cảm, thấu hiểu: “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”; lúc thì sẻ chia: “Tu hú ơi!...Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”. Tiếng chim tu hú tạo thành một điệp âm làm cho dòng hồi tưởng thêm giục giã, như khắc khoải khiến lòng người trỗi dậy những kỉ niệm nhớ mong.  Trong cảnh đơn côi chỉ có hai bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh, tiếng chim tu hú như một âm thanh đồng vọng của đất trời thấm vào lòng người .
Theo thời gian cháu lớn dần, kỉ niệm về tình bà cháu, làng xóm, quê hương  lại tiếp tục hiện về trong những dòng thơ chân thực, xúc động trong gian khổ của khói lửa chiến tranh:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
Hình ảnh người bà hiện lên trong những lời thơ ấy cũng thật đẹp đẽ. Bà lúc nào cũng yêu thương cháu, bà không chỉ chăm sóc bảo ban cháu mà còn dặn dò cháu :
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Người bà giờ đây không chỉ là người bà của gia đình mà là người bà của dân tộc, người mẹ hậu phương đang âm thầm lặng lẽ làm việc để hướng ra tiền tuyến. Bà không trực tiếp cầm súng nhưng những gì bà làm cho gia đình, cho con cháu đã biểu lộ ý thức trách nhiệm của mình đối với tổ quốc.
Từ những dòng hồi tưởng, người cháu đã suy ngẫm về tình bà. Càng lớn lên, tác giả càng thấy rõ tấm lòng cao quí đẹp đẽ của bà bởi tình bà cháu đã kết tinh và hoà quyện trong tình yêu quê hương, tổ quốc.
Do đó không phải ngẫu nhiên mà từ hình ảnh “bếp lửa” nhưng đến khổ thơ thứ năm nó đã bừng sáng thành “ngọn lửa”:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát và rộng lớn hơn: là tình thương gia đình, là ngọn lửa của niềm tin, mà bà đã ấp ủ, đã nhóm dậy trong lòng người cháu những tin yêu. Bà là người nhóm lửa, là người giữ lửa luôn ấm nóng, toả sáng trong gia đình. Không những thế, bà là người truyền ngọn lửa tinh thần sang cho cháu.  Chính vì vậy, nhắc đến bà là nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh bà. Bếp lửa ấy không chỉ được nhen bằng vật liệu bên ngoài mà còn chính là được nhen nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà - ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin. Vì thế khi bà nhóm lửa là lúc bà nhóm tình yêu thương và truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm.
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Ngôn ngữ, hình ảnh trong đoạn thơ dào dạt như sóng, lan toả như lửa ấm. Đó cũng chính là dòng cảm xúc dồn nén bỗng dâng trào. Nhà thơ đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị thân thuộc ấy điều kì lạ thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa”.
Đứa cháu năm xưa giờ đã khôn lớn, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen với những chân trời rộng mở: “Có ngọn khói trăm tàu/ Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Không gian và thời gian xa cách, cuộc đời đã có nhiều đổi thay… nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ tha thiết mãnh liệt bếp lửa quê nhà, nhớ  tấm lòng chắt chiu đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài.
Cái bếp lửa bình dị, quen thuộc của làng quê đã gợi cho ta những suy ngẫm về bếp tình ấm áp của gia đình và quê hương. Người cháu yêu bà, hiểu bà mà thêm yêu dân tộc mình, đất nước mình.