Cảm nhận những kỉ
niệm sâu sắc về tuổi thơ,tình bà cháu thiêng liêng, cảm động qua đoạn thơ:
Tám
năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú
kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu
hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay
kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng
tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ
cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở
cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy
cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp
lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú
ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu
chi hoài trên những cánh đồng xa?
(Bếp
lửa- Bằng
Việt)
Sau đó, liên hệ với một
tác phẩm khác hay thực tế cuộc sống để làm nổi bật giá trị của kỉ niệm với mỗi
người.
Bài làm
Mỗi người sinh ra ai cũng
có cho mình những kỷ niệm về một thời tuổi thơ. Vui có buồn có, sướng vui có
thì khó nhọc cũng có. Nhà thơ Bằng Việt cũng vậy, với riêng ông, cả một thời tuổi
thơ là những gì cả cuộc đời sau đó ông đã không thể nào quên, những kỷ niệm bên
người bà dấu yêu, và đó là lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. “Bếp lửa” không chỉ
làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người... "Bếp lửa” hay cùng
chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa. Ở một
đất nước xa xôi, cô quạnh, bao nhiêu ký ức về người bà một đời khắc khổ nuôi
ông lớn khôn hiện hữu về như mới ngày hôm qua:
Tám năm ròng, cháu cùng
bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh
đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ
không bà?
Bà hay kể chuyện những
ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha
thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận
không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo
cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm
cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương
bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở
cùng bà,
Kêu chi hoài trên những
cánh đồng xa?
Bài thơ đã gợi lại những
kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính
yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất
nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi
đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà. Lớn
lên từ những câu chuyện bà kể, từ những việc bà dạy cháu, từ những bài học của
bà, mọi thứ như đang ở ngay trước mắt.
Giọng thơ thủ thỉ như kể
một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực
mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà.
Tám năm ròng cháu cùng bà
nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh
đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ
không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha
thiết thế!
Tám năm. Tám năm kháng
chiến. Tám năm khó khăn. Bà không chỉ dành cho cháu những bữa ăn mà còn cho
cháu một tuổi thơ đầy yêu thương.Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỉ niệm buồn
vui bên bà, bên bếp lửa. Ngọn lửa ấy được nhóm lên bằng bàn tay của hai bà
cháu, vì cuộc sống cơm áo cực nhọc đời thường. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy là của
tình yêu thương “ấp iu nồng đượm” mà bà đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây
thơ từ những ngày xửa ngày xưa, khi cháu vừa “lên bốn tuổi”. Nếu trong hồi
ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng
ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc văng vẳng từ những
cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm
cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm
của nỗi nhớ thương. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả
bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.
Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa
không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những
cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”.
Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng
người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của
quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.
Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những
cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương, làm nhà thơ bồi hồi sống lại những kỉ niệm sâu
sắc thời thơ bé, bâng khuâng nhớ lại những chuyện kể của bà. “Tám năm ròng…”
– một thời gian khổ đã qua, nhưng cháu làm sao quên được? Cháu hồi tưởng, cháu
hỏi bà hay tư hỏi mình? Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng
như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bởi chỉ có hai bà cháu
mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải
lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Bà có nhớ những câu
chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng
sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân
mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm,
xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà
dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp?
Làm sao cháu có thể quên
được hồi ấy:
Mẹ cùng cha công tác bận
không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo
cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm
cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương
bà khó nhọc.
Có lẽ khi tiếng chim tu
hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong
ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ?
Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh
chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh
hiu. Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh
thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy
dỗ cháu nên người.
Bà là người chăm chút cho
cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về
đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất,
kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Hàng loạt
động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ, chăm
chút trong tình yêu thương của bà. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm
người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường,
không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Con đi xa, bao
nhiêu yêu thương bà dành hết cho đứa cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu
thương đó và thấu hiểu nỗi vất vả của bà. Trong trái tim ngây thơ, cháu thầm
trách chim tu hú sao chẳng đến ở cùng bà cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ
mong. Điệp từ “bà, cháu” lặp đi lặp lại, góp phần diễn tả cảnh bà cháu
quấn quýt không rời. Dù thiếu vắng sự chăm sóc của mẹ cha nhưng tình yêu thương
của bà đã bù đắp tất cả. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà
dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn
cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn. Cháu thật diễm phúc khi có một người
bà như thế! Đến tận bây giờ, dù đang du
học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái
ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu
lại càng thương bà hơn. Cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của
bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương”
thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết
ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình. Đến tận bây giờ, dù đang du học
nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được
cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà,
cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu quẹo,
thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an.
Từ tình yêu thương sâu sắc
của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở
cùng bà
Kêu chi hoài trên những
cánh đồng xa?
Tác giả đang trách chim
tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ
buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Vì
cuộc sống, vì lí tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại
ngày một dài thêm. Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng
chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi
qua, bà vẫn xa đằng đẵng…Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu
vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu
trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ
quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…
Giọng thơ chầm chậm, da
diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ, niềm thương. Tự nhiên như thế, đoạn
thơ đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm khó tả, bao nỗi nhớ của một khung
trời tươi đẹp về một kí ức tuổi thơ có bà. Trong tâm trí của người cháu xa quê ấy
có lẽ đang tìm về những kí ức yêu thương cho thỏa nỗi nhớ nhung bà. Bài thơ
sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng
người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ đến
bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là tình
yêu Tổ Quốc!
Kỷ niệm là những khoảnh
khắc quá khứ mà ta luôn ghi nhớ. Đôi lúc kỷ niệm thật trọng đại như ngày ta tốt
nghiệp hay kết hôn, đôi lúc lại chỉ thật nhỏ bé như bát chè ngọt thơm của bà
ngày thơ ấu. Có những kỷ niệm khiến ta chỉ muốn hoài lưu nhớ, cũng lại có những
kỷ niệm khiến ta chỉ muốn chôn vùi vào dĩ vãng. Nhưng dù thế nào, chúng vẫn là một
phần của cuộc sống và tạo nên con người ta, bởi thế ta không thể phủ nhận những
sức mạnh to lớn của kỷ niệm mà tác động lên mỗi người. Sức mạnh ấy sẽ luôn hiện
hữu trên chuyến hải trình cuộc đời này của mỗi chúng ta.
Rất nhiều kỉ niệm trong
quá khứ luôn ẩn chứa những bài học, kinh nghiệm quý báu cho mỗi chúng ta trong
cả hiện tại và tương lai. Một triết gia từng nói:”Quá khứ là thầy dạy của tương
lai”. Khi nhớ về những lần vụng dại hay vấp ngã, ta sẽ biết nhận ra những khiếm
khuyết của mình để sửa đổi và trở nên tốt hơn. Kỷ niệm trong những phút tĩnh lặng
còn là khoảnh khắc để lòng ta tĩnh lại, và nhận ra những điều thật tâm ta trân
trọng. Không những thế, sức mạnh của kỷ niệm còn là nguồn động lực giúp ta vượt
qua những khoảnh khắc đen tối trong cuộc đời. Kỷ niệm về tuổi thơ cay xè mùi
khói bếp bên hình bóng người bà đã giúp Bằng Việt viết nên “Bếp lửa” đầy cảm động.
Ký ức về những tháng ngày đóng quân nơi núi rùng đầy vất vả đã giúp cho Quang
Dũng viết nên một “Tây Tiến” lãng mạn và bi tráng. Như một quyển nhật ký chất
chứa bao điều, trái tim người nghệ sĩ lần giở những trang quá khứ để gửi cho cuộc
đời bao cảm xúc, bao câu chuyện. Cứ thế, bao kỷ niệm êm đềm lại tiếp tục đồng
hành cúng ta trên chuyến hải trình của cuộc sống, với tất cả sức mạnh và giá trị
của nó. Bên cạnh những kỷ niệm đẹp, vẫn còn đó những kỷ niệm đau buồn đủ sức
tàn phá tâm hồn và trái tim. Ký ức về một tuổi thơ không hạnh phúc hay những lời
làm ta tổn thương, hay hình bóng một người thân yêu đã rời xa sẽ không dễ gì biến
mất. Sức mạnh của chúng cứ như một bóng ma, âm thầm và rồi lại bất ngờ làm ta tổn
thương thêm một lần nữa. Và,cách ta đối diện và tiếp nhận chúng là điều quan trọng
nhất. Tất cả kỷ niệm, dù đẹp đẽ hay xấu xí, êm đềm hay bão tố, đáng nhớ hay
đáng quên cũng đều mang một ý nghĩa nào đó. . Giữ lấy những kỷ niệm tốt đẹp ở
trong tim, tha thứ và chấp nhận quên đi những kí ức tồi tệ đã là quá khứ. “Còn kỷ niệm là còn tâm hồn, còn nhớ, và còn
biết thương chính mình, để sống còn niềm tin vào cái đẹp.” Kỷ niệm là món quà của
quá khứ và là một phần của cuộc sống mỗi người. Trước tất cả sức mạnh to lớn của
nó, cách ta đối diện và tiếp nhận chúng mới là quan trọng nhất. Một đại dương
không thể thiếu sóng biển, và một cuộc đời không thể đi qua mà không mang lấy
chút kỷ niệm nào. Trên chuyến hải trình của cuộc đời này, mong rằng những kỷ niệm
sẽ luôn là cơn sóng vỗ về bạn với tất cả êm đềm của nó...
Kí ức về làng quê, về những
người thân thương trong không gian ấu thơ luôn là hành trang vững chắc để người
ta mang theo trong tim qua những nẻo đường đời… Nó giúp người ta thêm mạnh mẽ
hơn để đối mặt với trăm chiều giông tố… Có thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng
Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương! Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính
là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu thương, gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng
là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người. Bếp lửa bồi dưỡng
cho mỗi chúng ta cách sống nghĩa tình, nhân hậu, thủy chung. Bài thơ cũng là
bài học đạo lý sâu sắc, thấm thía mà đến với nó, ta như tìm được những yêu
thương, ấp ủ mặn nồng của cuộc sống đến suốt cuộc đời không thể nào quên.