Phân
tích khổ 1 bài thơ Nói Với con của Y Phương. Sau đó liên hệ 1 Bài thơ/ 1 Nhân vật/
Thực tế
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi
con lớn
Mang cả tấm thân gầy cha
che chở đời con
Quả thật đúng như vậy,
cha mẹ người sinh thành nuôi dạy ta trưởng thành, làm sao có thể đong đếm nổi
công ơn. Nếu như mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc thì cha lại là người định hướng,
đưa ra cho con những lời khuyên hữu ích trên con đường đời đầy chông gai, bão tố.
Có rất nhiều bài thơ, bài văn đã thể hiện vấn đề đó và ta không thể không nhắc
đến bài thơ Nói với con của Y Phương. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ Nói
với con của tác giả Y Phương những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân
cần của người cha đối với con được diễn đạt bằng cách nói mộc mạc, chân chất của
người miền núi, bằng những hình ảnh giản dị tưởng như thô ráp nhưng vẫn mang vẻ
đẹp tinh khôi của cảnh và tình nơi rừng núi quê hương. Y Phương nhắc con khắc
ghi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người. Gia đình và quê hương là cái nôi
êm để từ đó con người lớn lên, trưởng thành:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm
con ơi
Nan lờ cài đan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm
lòng.
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất
trên đời.
Tình cảm gia đình, tình
yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng là những tình cảm
thiêng liêng nhất đối với con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong
thế hệ sau tiếp nối xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự
thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Y Phương giãi bày những sắc thái tình
cảm ấy bằng những vần thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Chúng ta bắt gặp
trong những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần của người cha đối với
con được diễn đạt bằng cách nói mộc mạc, chân chất của người miền núi, bằng những
hình ảnh giản dị tưởng như thô ráp nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh khôi của cảnh và
tình nơi rừng núi quê hương. Tình cảm cha con hiện lên thật ấm áp và cao cả biết
bao.
Để con sống có ích, hiểu
về nguồn cội của mình, ông gửi gắm vào lời nói với con trẻ, dặn dò thiết tha đứa
con của mình. Nguồn cội đầu tiên con
sinh ra chính là từ tình yêu thương của cha mẹ. Con là kết tinh của tình yêu ấy:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một nước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Các câu thơ là tiếng reo
vui biết bao trìu mến khi cha mẹ chứng kiến đứa con chập chững những bước đi đầu
đời. Bằng những hình ảnh bình dị, cụ thể, giàu chất thơ, kết hợp với nét độc
đáo trong tư duy, cách diễn đạt rắn rỏi của người miền núi, bốn câu thơ mở ra
khung cảnh một gia đình hạnh phúc, đầy ắp tiếng cười tiếng nói. Bước chân đầu đời
con bước tới cha là bước đến tinh thần, lý tưởng cao đẹp. Bước thứ hai con bước
đến mẹ là bước vào tình yêu thương và sự chở che vững chắc. Gia đình là nguồn
sinh dưỡng đầu tiên, là điểm tựa nâng bước chân con vào đời. Lời thơ như chảy
ra từ tâm hồn vô vàn yêu mến và tự nhiên vô cùng. Nhịp thơ 2/ 3 chậm rãi, cấu
trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại hiện rõ từng bước đi ngập ngừng có chút e
sợ của người con càng làm cho ta thêm quý trọng những phút giây đầu đời. Hình ảnh
thơ không chút cầu kì, cứ tự nhiên như lời nói khiến rất dễ hình dung một hình ảnh
cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng
vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười
của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngôi nhà như rung lên
trong “tiếng nói, tiếng cười” của cha, của mẹ. Hình ảnh ấm lòng này muôn
thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối
với cuộc đời, tâm hồn con. Đó cũng là lời nhắc nhở thiêng liêng, là niềm mong
muốn của cha. Mai này con có bước đi chân đi xa hơn nữa thì phải nhớ đến gia
đình, nhớ đến cha mẹ, nhớ đến cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên đã cho con sức mạnh.
Con có vững bước ở tương lai là bởi hôm nay có cha có mẹ dìu dắt con bước tới.
Sự khám phá đầu tiên trong cuộc đời có sự nâng đỡ của gia đình. Tình phụ tử
thiêng liêng, thầm kín là mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt được
hình thành và phát triển trong phút giây hạnh phúc bình dị đáng nhớ ấy. Lời thơ
ngay từ đầu đã chạm đến niềm rung cảm sâu xa nhất trong trái tim con người, tạo
nên sự đồng cảm có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Người cha cũng không quên
nhắc nhở con yêu về tình nghĩa quê hương nguồn cội, về con người và núi rừng
Tây Bắc, nơi chôn nhau cắt rốn bao đời trong niềm tự hào lớn lao:
Người đồng mình thương lắm
con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm
lòng.
Từ trong gia đình, nhà
thơ mở ra không gian rộng lớn để con hiểu biết, trân trọng và gìn giữ. Tuy có
chút vội vàng nhưng đó lại là tin thiết tha mà người cha muốn con thấu hiểu. Đối
với người cha, đất và người là cội nguồn của mọi sự sống, mọi tinh thần. Đất và
người nuôi ta khôn lớn, cho ta sức mạnh, tình yêu và sự sống; hình thành cho ta
nền văn hóa, tư tưởng và khát vọng chinh phục. Bởi thế, ba tiếng “người đồng
mình” vang lên nghe tha thiết vô cùng. Nó chứa đựng cái tình, cái nghĩa thắm
ngọt của quê hương, bản làng. "Người đồng mình" là để chỉ những người
vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng
dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi "con ơi" kết hợp với từ
tình thái "yêu lắm" (“yêu lắm” là cụm tính từ) làm cho lời thơ
trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết.
Cội nguồn sinh dưỡng đích
thực của đời người chính là quê hương, nguồn cội, là đất, là rừng, là con đường
thắm đượm nghĩa tình dẫn bước ta đi. Người đồng mình luôn lấy cái tươi đẹp làm
nguồn sống của mình, lấy tình yêu thương làm cái để cho tặng. Người cha mong muốn
con phải biết “người đồng mình” đã sống như thế ấy, mạnh mẽ và thủy
chung, bình dị mà tươi đẹp, trong sạch, vững bền. Ho biết trân trọng cái đẹp và
không ngừng làm đẹp cho cuộc đời mình dù hết sức nhỏ bé. Tác giả đã lựa chọn
đưa vào những hình ảnh đẹp đẽ “nan lờ cài đan hoa” và tươi vui “vách
nhà ken câu hát” khi tâm tình với con về cuộc sống lao động của “người đồng
mình”. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của "người đồng mình"
được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: "đan lờ"
– dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành
"cài nan hoa"; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng
những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những "câu hát" - chiều
văn hóa, lối sống của "người đồng mình". Những động từ
"đan", "cài", "ken" vừa có tác dụng diễn tả những
động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động,
yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người
dân miền núi. Những động từ “đan, ken, cài” bên cạnh việc giúp cho người
đọc hình dung được những công việc cụ thể của con người trên quê hương còn gợi
ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và của quê hương xứ sở.
Phải chăng đó chính là nguồn cội nuôi dưỡng tâm hồn con người?
Và nói đến quê hương cũng
là nói đến cảnh quan đặc trưng của nơi con người cụ thể sinh ra và trưởng thành
từ đó. Quê hương của “người đồng mình” gắn với hình ảnh rừng. Cảnh quan
miền núi, hiện ra thật thơ mộng, đẹp đẽ bằng hình ảnh “rừng cho hoa”.
Hình dung về “rừng” ta hình tượng là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng
chim thú hoặc cả những bí mật bất trắc của rừng. Nhưng Y Phương chỉ chọn một
hình ảnh thôi, hình ảnh hoa để nói về cảnh quan rừng. Trong tiếng Việt,
hoa nhiều khi được hiểu như những gì đẹp, quý. “Hoa" là sản phẩm của
thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của
trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. “Hoa” là một
tín hiệu thẩm mĩ đáng giá, góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát:
chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người
ở đó.
Thiên nhiên rừng núi
không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dữơng
con người cả về tâm hồn, lối sống. Những "con đường" là sợi
dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những "người đồng mình". Những
"con đường" ấy được tạo nên bởi những "tấm lòng" nhân hậu,
bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường
tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng... Chính những con đường đó đã
gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây. “Con đường cho những tấm
lòng”, vẻ như mộng ấy của thiên nhiên, nghĩa tình sâu đậm ấy của “những tấm
lòng” đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con. Quê
hương hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương với con. Đó cũng chính là một
nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong lâm hồn mỗi người.
Và con hãy ghi nhớ điều
đó trước khi đời sống vật chất chưa kịp chạm đến tâm hồn và thổi bùng những
tham vọng trong con, như cha mẹ nhớ về khoảnh khắc thiêng liêng này:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất
trên đời.
Từ tình cảm quê hương,
người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của "ngày
cưới". Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y
Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt
nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy,
nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì
con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không
chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình
cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở
che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời. Không chút triết lí
cho một lời gửi gắm hết sức đơn giản nhưng rất quân trọng đối với mỗi đời người.
Điều mà người cha muôn nói là con phải biết trân trọng cuộc đời, trân trọng quê
hương với những gì bình dị, thiêng liêng nhất. Đó là nguồn sống, là sức mạnh bất
diệt dẫn bước con vượt qua thử thách hướng đến tương lai.
Y Phương góp thêm một tiếng nói yêu thương của
cha mẹ đối với con cái cũng như những kì vọng lớn lao, mong muốn thế hệ sau sẽ
kế tục, phát triển những truyền thống quý báu của quê hương. Bằng cách diễn đạt
mộc mạc “thô sơ”, bằng những hình ảnh cụ thể mà giàu khái quát, Nhỏ nhẹ như lời
tâm tình thủ thỉ, bài thơ thể hiện vẻ đẹp tình cha con thắm thiết. Qua lời tâm
sự, dặn dò con trẻ lúc ban sơ, người cha thể hiện niềm tự hào lớn lao về nguồn
cội quê hương và mong muốn con sau này phải trân trọng, gìn giữ lấy những giá
trị cao đẹp mà người đồng mình đã muôn đời gìn giữ.
Liên
hệ về Tình yêu Quê hương ( Cả tác phẩm)
Khi đọc những lời thơ
này, chắc hẳn nhiều người liên tưởng đến một bài thơ quen thuộc: bài thơ “Quê
hương” của Đỗ Trung Quân. Không chọn cách nói hoàn toàn giống Y Phương
trong “Nói với con” song những điều tác giả muốn nói lại có những điểm tương đồng.
Trong hình thức trả lời cho câu hỏi của một em bé;
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu!
Quê hương là gì hở mẹ!
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”
Tác giả đã đi đến định
nghĩa quê hương trong hàng loạt những câu trúc khẳng định: Quê hương là chùm
khế ngọt! Đường đi học! Cánh diều! Con đò nhỏ! cầu tre nhỏ! Đêm trăng tỏ. Nếu
như những hình ảnh núi rừng được Y Phương chấm phá trong Nói với con thì hình ảnh
một miền quê mang đậm cảnh sắc nông thôn yên ả cũng hiện ra trong bài thơ Quê
hương. Và tác giả của Quê hương cũng luôn láy lại rằng, mỗi cảnh vật cụ thể ấy
đều gắn với những hành động của con, với hình dáng mẹ – hình ảnh thân thương nhất
đời của mỗi con người. Hai tác giả dường như đã gặp nhau ở cùng một cách hiểu: quê
hương là những gì gần gũi thân thương nhất và cũng là nguồn cội của những tình
cảm sâu sắc, tha thiết nhất của con người. Và tình cảm cũng sẽ lại khởi nguồn
cho những tình cảm lớn lao, bền vững hơn như tình yêu đất nước, như Xuân Diệu
đã từng khái quát: “Tình yêu tổ quốc là đỉnh núi bờ sông”. Trong Nói với con chỉ
vài câu thơ ngắn, vài lời thơ giản dị nhưng đã mở ra những ý tứ sâu xa, thâm trầm
gần như được nâng lên tầm triết lý. Sức mạnh của thơ, quyền năng, sự quyến rũ của
thơ là ở đó chăng?
Có thể nói “Nói với con”
của Y Phương và bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân là tiếng nói tình yêu quê
hương đất nước nồng nàn tha thiết, sự trân trọng và tự hào về người con người
quê hương. Các tác giả đã phát hiện ra nét đẹp này trong đời sống tâm hồn của
người dân ta trong suốt những năm tháng đầy đau thương, mất mát. Dù đất nước có
đói nghèo lam lũ, có quê mùa đơn sơ nhỏ bé thì con ơi đừng bao giờ coi thường,
từ bỏ hay lãng quên. Bởi đó là nơi ta đã sinh ra và lớn lên, là nguồn cội dưỡng
nuôi và che chở, là nơi tổ tiên ông cha đã bao đời sinh sống, lập nghiệp, nơi
chứa đựng biết bao nghĩa tình, kỉ niệm thiêng liêng gắn bó. Nếu ai đó quay lưng
ngoảnh mặt từ bỏ cội nguồn quê hương đất nước thì mãi mãi con người đó không thể
khôn lớn trưởng thành, và đó là hành động vong ơn bội nghĩa đi ngược lại với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của ông cha. Phải mang trong mình một tình yêu quê
hương làng bản mặn mà, nồng nàn, thắm thiết thì hai nhà thơ mới căn dặn con
mình một cách chân thành thiết tha đến thế.
Kết bài về Tình yêu Quê
hương
Đây là hai bài thơ thành
công về đề tài quê hương đất nước thể hiện tình yêu quê hương giản dị mà sâu nặng,
nhỏ bé mà lớn lao, chân thật mà tinh tế của hai tác giả. Cùng một đề tài, cùng
một cảm xúc nhưng mỗi bài thơ lại in đậm dấu ấn riêng của từng nghệ sĩ trong
sáng tạo nghệ thuật. Quê hương chính là điểm tựa tinh thần, là động lực cho mỗi
con người vượt mọi khó khăn, gian khổ để xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp.
Liên hệ về Tình yêu Quê hương (1 Đoạn thơ)
Ta cũng có thể cảm nhận
sâu sắc niềm yêu mến và lòng tự hào về quê hương, đất nước thiết tha của
Thanh
Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ như một lời tâm niệm chân thành,
gửi gắm tha thiết của nhà thơ để lại với đời. Niềm tự hào lớn
lao của Thanh Hải và lòng tha thiết yêu mến, ước muốn gắn bó với nhân dân, đất
nước, với cuộc đời biết bao tươi đẹp được thể hiện thật cảm động trong khổ thơ:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Mùa xuân của đất nước
càng thêm rạo rực với hình ảnh người cầm súng (những người làm nhiệm vụ chiến đấu)
và hình ảnh “người ra đồng”. Từ “lộc” biểu hiện của niềm hi vọng tươi sáng đang
theo con người đi khắp nơi hay hay chính họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất
nước. Đất nước đang đổi thay, đang hối hả
nhịp chiến đấu, xây dựng. Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới
và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi
thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người,
làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước,
của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người
lao động hăng say ngoài đồng ruộng. Hình ảnh ẩn đụ “lộc” là sức sống, là tuổi
trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng
cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người
lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần
cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin,
hi vọng ngày mai. Những con người Việt Nam tất bật khẩn trương trong giai đoạn
mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa với tâm trạng náo
nức rộn ràng. Không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn
trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi
đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Nhà thơ Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và
tin yêu khi viết nên những vần thơ này.
Hai đoạn thơ là niềm tự
hào lớn lao, là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó của nhà thơ Thanh Hải và
Y Phương với đất nước, với cuộc đời. Tình yêu cuộc sống, tình yêu quê hương đất
nước lúc nào cũng tràn trào trong lòng các nhà thơ. Từ giọng thơ khoáng đạt,
hình ảnh thơ ấn tượngĩ, ta cảm nhận được niềm tin tưởng của hai tác giả Thanh Hải
và Y Phương vào tương lai của dân tộc Việt Nam. Âm thanh tình yêu đất nước vang
lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Niềm tự hào về
đất nước cứ lâng lâng chảy trào trong huyết mạch khiến hai nhà thơ bồi hồi nghĩ về bổn phận đối với nhân
dân, với quê hương, đất nước, sống làm sao cho xứng đáng với truyền thống và lịch
sử hào hùng của dân tộc mình. Hai bài thơ đã khép lại nhưng cảm xúc mãi cuộn
trào mãi không thôi
Kết bài về Tình yêu Quê
hương (1 Đoạn thơ)
Đọc 2 bài thơ Nói với con
của Y Phương và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ta nhớ lại những truyền thống dựng
nước, giữ nước thật hào hùng của dân tộc ta nhân tộc ta nhận thấy niềm tự hào
mà nhà thơ Thanh Hải, Y Phương thể hiện trong hai bài thơ rất thực rất chân
thành và đầy ý nghĩa. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị như củ khoai, hạt lúa mà chất
chứa bao ý nghĩa sâu xa giúp người đọc chúng ta hình dung những bước chân mạnh
mẽ, vững chắc của dân tộc, trong quá trình dựng giữ và xây dựng đất nước. Quá
trình ấy đã làm nên lịch sử thật vẻ vang, thật đáng tự hào như chính lòng tự
hào cao độ của các nhà thơ. Ý thơ truyền cho ta sức mạnh và thêm
tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Thêm một lần nữa, hình ảnh đất nước được tạc
nên bằng nghệ thuật ngôn từ đặc sắc trong tình yêu thương vô hạn của hai nhà
thơ.
Liên hệ về Tình cha (1
Nhân vật văn học)
Nếu người cha
miền núi Y Phương, trong tình yêu con có tình yêu và niềm tự hào về quê hương
làng bản. Người cha ấy muốn truyền cho con trọn vẹn tình yêu ấy, muốn con phải
trở thành người Tày chân chính để góp phần nâng cao tầm vóc thôn làng. Thì người
cha chiến sĩ - ông Sáu – yêu thương con và nặng lòng yêu nước. Anh đành phải
nén lại tình riêng mà tham gia chiến đấu. Tình yêu gia đình là động lực để anh
đối mặt với khó khăn gian khổ.
Chiến tranh có thể tàn
phá những gì trên đường nó đi qua, duy nhất tình cảm gia đình không bom đạn nào
có thể hủy diệt được. Điều này thể hiện
rõ qua đoạn trích từ tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Tình yêu
thương con mãnh liệt của ông Sáu gửi gắm trong chiếc lược ngà mà anh làm tặng
cho con khiến người đọc vừa yêu mến vừa xót xa. Tình cảm của ông Sáu dành cho
con sâu nặng trong sự hy sinh thầm lặng. Xa con từ nhỏ chưa từng được ôm con
nghe con gọi tiếng ba. Ở chiến trường, nỗi nhớ con luôn giày vò ông Sáu, chính
vì vậy về tới quê, nhìn thấy Thu, ông đã nhảy vội lên bờ và định ôm hôn con cho
thỏa nỗi nhớ mong. Mấy ngày về phép, ông luôn tìm cách gần gũi con mong bù lại
cho con những tháng ngày xa cách dù cho bé Thu hiểu lầm có thái độ hỗn hào phản
kháng, ông vẫn kiên nhẫn chiều chuộng, thuyết phục. Lúc ra đi, ông âm thầm, lặng
lẽ nhìn con, chỉ khi bé Thu nhận ra ba và nhảy lên ôm chặt lấy cổ ba, lúc bấy
giờ nước mắt ông mới trào ra. Những ngày ở căn cứ, lúc rảnh rỗi là ông gửi hết
tình thương con vào việc làm chiếc lược ngà. Trước lúc hy sinh, điều mà ông
nghĩ tới duy nhất là nhờ đồng đội mang chiếc lược về cho con. Tình cảm yêu
thương con sâu nặng của ông Sáu làm cho người đọc xúc động và thấm thía nỗi đau
thương mất mát, éo le do chiến tranh gây ra. Nhưng điều đáng quý nhất trong cái
mất mát ấy đó là tình cảm cha con, tình cảm muôn thuở có tính nhân bản bền vững,
tình cảm ấy bất diệt trước sự hủy diệt tàn khốc của chiến tranh.
Tình cảm gia đình – tình
cha con là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi người.
Mỗi nhà thơ, nhà văn bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học
những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và
đánh thức tình cảm tốt đẹp của con người về tình cảm gia đình. Vẻ đẹp của tình
cảm gia đình – tình cha con trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp phần
hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại
được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây
cũng là một mạch nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của
thơ ca dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những
nét riêng - một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.
Kết bài về Tình cha
Tình cha đối với con ở
hai hoàn cảnh khác nhau, cách biểu hiện khác nhau nhưng đều có điểm chung là
tình thương yêu hết sức sâu sắc, đằm thắm, thầm lặng và đầy sự hy sinh. Qua các
tác phẩm văn học, ta thấy được những người cha khắp mọi miền đất nước, dù ở
hoàn cảnh nào cũng dành cho con tình yêu tha thiết sâu nặng. Cha mẹ đâu chỉ bao
bọc, chở che cho con mà còn mong muốn dạy cho con bao điều tốt đẹp để hoàn thiện
nhân cách.Tình cảm cha con nói riêng, tình cảm gia đình nói chung là tình cảm
quý báu, mỗi người cần biết trân trọng, giữ gìn, phát huy.
Liên hệ thực tế về Vai
trò của người cha
Ông bà ta ngày xưa đã có
câu “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”; việc gia đình, giáo dục con cái là của
người mẹ, còn việc kiếm tiền là của người cha. Nhưng thực tế vai trò, trách nhiệm
của người cha và người mẹ trong gia đình là như nhau, con trẻ không thể thiếu
được sự dạy dỗ và tình thương yêu của một trong hai người.
Người cha trong gia đình
thường được coi như một “nóc nhà” che chắn cho cả gia đình, là nhân tố quan trọng
để trẻ được học tập và phát triển tốt, tạo ra mái ấm của gia đình. Chính vì vậy
nên vai trò của người cha vô cùng quan trọng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục
con cái, bởi vì người cha chính là trụ cốt cho cả gia đình dựa dấm, là người có
khả năng chính tỏng việc tạo dựng kinh tế gia đình. Đây cũng là nơi để cho vợ
và con cái được nương tựa Trong tình
hình biến đổi kinh tế cũng như văn hóa hiện nay thì vai trò của người đàn ông
trong gia đình càng được đề cao, nhất là trong việc giáo dục con cái. Người cha
cũng là người có thể định hướng tương lai cho con, giúp con làm chỗ dựa tinh thần,
giúp con tự tin hơn khi bước vào đời.
Cha là bắt đầu cho nguồn
gốc, lý tưởng và tương lai. Còn mẹ là bắt đầu cho sự sống, tình yêu và hạnh
phúc. Sự thành công và hạnh phúc của một đứa trẻ không thể thiếu sự chăm sóc, dạy
bảo của đấng sinh thành. Vì vậy, cả bố và mẹ hãy luôn dành thời gian cho con,
cùng nhau có cách nuôi dạy con thật tốt để làm nền tảng cho trẻ bước vào đời.
Kết bài về Vai trò của
người cha
Bài thơ “Nói với con” đi
vào trong lòng người đọc bởi sự dịu dàng, nhưng nhiều triết lý sâu sắc, bởi
tình yêu âm thầm nhưng mãnh liệt của tình cha dành cho con. Tình phụ tử thiêng
liêng mà cao quý. Cha chẳng quản gian lao, vất vả để nuôi dạy con, mong cho con
khôn lớn nên người. Mặc dù chưa làm tròn chữ hiếu, chưa thể làm cha vui nhưng
con hiểu được những lầm lỗi và luôn dặn lòng cố gắng để không phải để cha phiền
lòng. Tình cha chính là thứ động lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn
mỗi con người.
Liên hệ về Vai trò gia
đình
Yếu tố gia đình chịu
trách nhiệm ban đầu đối với quá trình phát triển của con trẻ/cá nhân, ảnh hưởng
không nhỏ đến việc hình thành phẩm chất, nhân cách gốc của con trẻ. Giáo dục và
nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng và nhân cách của
mỗi con người, mà nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc còn nằm trong bụng
mẹ cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại… Trong hành trình đó, lứa tuổi ấu
thơ được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình là giai đoạn quan trọng, mặc dù khi
đó, nhân cách chưa được thể hiện rõ ràng, song thông qua hành vi bắt chước hành
động của người lớn, con trẻ bắt đầu thu nhận các tương tác nhân - sinh - quan để
hình thành nhân cách của mình. Để con trẻ trở thành một người có nhân cách tốt,
việc giáo dục của mỗi gia đình đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, giáo dục con trẻ
không chỉ dừng lại ở lời nói hay mà phải bằng những cử chỉ, việc làm đẹp, bởi mọi
hành vi, thái độ, lối sống của người lớn, nhất là cha mẹ có tác động trực tiếp
tới việc hình thành, phát triển nhân cách của con trẻ. Người xưa thường nói “dạy
con từ thuở còn thơ”, cho nên, việc thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử
chỉ, lời nói lễ phép, kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo… để khi trưởng
thành con trẻ thấu hiểu, biết ơn đấng sinh thành, nuôi dưỡng, chăm sóc ông bà,
cha mẹ là hết sức cần thiết.
Cha mẹ, ông bà không chỉ
giáo dục con trẻ đạo đức và văn hóa gia đình, giáo dục lao động, giáo dục phát
triển trí tuệ, giáo dục thể lực toàn diện, giáo dục thẩm mỹ; trong đó, việc
giáo dục, dạy dỗ về thái độ, cử chỉ, giao tiếp và ứng xử lễ nghĩa, kính trọng
người già, chăm lo, nhường nhịn người nhỏ tuổi; uốn nắn, phê phán, ngăn chặn
thái độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu của con trẻ mà còn rèn tính tự giác trong học
tập, suy nghĩ, sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp, kỹ năng sống… giúp con trẻ
hình thành nhân cách, sớm ý thức được trách nhiệm của mình đối với mọi người và
mọi người đối với mình trong gia đình. Văn hóa gia đình chính là thành lũy kiên
cố để bảo vệ và giúp con trẻ duy trì, phát huy được những giá trị chân, thiện,
mỹ từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, khơi dậy cho con trẻ
những ý tưởng sáng tạo, hình thành lối sống lành mạnh, góp phần vào quá trình
giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách con người.
Kết
bài về Vai trò gia đình
Gia đình không chỉ là tế
bào tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội, vì thế, muốn có một xã hội
phát triển lành mạnh thì trước hết từng tế bào phải phát triển bền vững, để xã
hội tồn tại và phát triển. Trong mỗi gia đình, vai trò của cha mẹ có vị trí tối
quan trọng. Theo truyền thống Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người
cha là trụ cột, là biểu hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học
tập và noi theo. Còn người mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa
sưởi ấm yêu thương trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Vì thế,
gia đình là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành nhân cách cho trẻ em.