Thứ Năm, 8 tháng 4, 2021

Phân tích khổ 1 bài thơ Nói Với con của Y Phương. Sau đó liên hệ 1 Bài thơ/ 1 Nhân vật/ Thực tế


 

Phân tích khổ 1 bài thơ Nói Với con của Y Phương. Sau đó liên hệ 1 Bài thơ/ 1 Nhân vật/ Thực tế

Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con lớn

Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con

Quả thật đúng như vậy, cha mẹ người sinh thành nuôi dạy ta trưởng thành, làm sao có thể đong đếm nổi công ơn. Nếu như mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc thì cha lại là người định hướng, đưa ra cho con những lời khuyên hữu ích trên con đường đời đầy chông gai, bão tố. Có rất nhiều bài thơ, bài văn đã thể hiện vấn đề đó và ta không thể không nhắc đến bài thơ Nói với con của Y Phương. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ Nói với con của tác giả Y Phương những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần của người cha đối với con được diễn đạt bằng cách nói mộc mạc, chân chất của người miền núi, bằng những hình ảnh giản dị tưởng như thô ráp nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh khôi của cảnh và tình nơi rừng núi quê hương. Y Phương nhắc con khắc ghi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người. Gia đình và quê hương là cái nôi êm để từ đó con người lớn lên, trưởng thành:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Nan lờ cài đan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng là những tình cảm thiêng liêng nhất đối với con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau tiếp nối xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Y Phương giãi bày những sắc thái tình cảm ấy bằng những vần thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Chúng ta bắt gặp trong những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần của người cha đối với con được diễn đạt bằng cách nói mộc mạc, chân chất của người miền núi, bằng những hình ảnh giản dị tưởng như thô ráp nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh khôi của cảnh và tình nơi rừng núi quê hương. Tình cảm cha con hiện lên thật ấm áp và cao cả biết bao.

Để con sống có ích, hiểu về nguồn cội của mình, ông gửi gắm vào lời nói với con trẻ, dặn dò thiết tha đứa con của mình.  Nguồn cội đầu tiên con sinh ra chính là từ tình yêu thương của cha mẹ. Con là kết tinh của tình yêu ấy:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một nước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Các câu thơ là tiếng reo vui biết bao trìu mến khi cha mẹ chứng kiến đứa con chập chững những bước đi đầu đời. Bằng những hình ảnh bình dị, cụ thể, giàu chất thơ, kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt rắn rỏi của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình hạnh phúc, đầy ắp tiếng cười tiếng nói. Bước chân đầu đời con bước tới cha là bước đến tinh thần, lý tưởng cao đẹp. Bước thứ hai con bước đến mẹ là bước vào tình yêu thương và sự chở che vững chắc. Gia đình là nguồn sinh dưỡng đầu tiên, là điểm tựa nâng bước chân con vào đời. Lời thơ như chảy ra từ tâm hồn vô vàn yêu mến và tự nhiên vô cùng. Nhịp thơ 2/ 3 chậm rãi, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại hiện rõ từng bước đi ngập ngừng có chút e sợ của người con càng làm cho ta thêm quý trọng những phút giây đầu đời. Hình ảnh thơ không chút cầu kì, cứ tự nhiên như lời nói khiến rất dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói, tiếng cười” của cha, của mẹ. Hình ảnh ấm lòng này muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con. Đó cũng là lời nhắc nhở thiêng liêng, là niềm mong muốn của cha. Mai này con có bước đi chân đi xa hơn nữa thì phải nhớ đến gia đình, nhớ đến cha mẹ, nhớ đến cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên đã cho con sức mạnh. Con có vững bước ở tương lai là bởi hôm nay có cha có mẹ dìu dắt con bước tới. Sự khám phá đầu tiên trong cuộc đời có sự nâng đỡ của gia đình. Tình phụ tử thiêng liêng, thầm kín là mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt được hình thành và phát triển trong phút giây hạnh phúc bình dị đáng nhớ ấy. Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến niềm rung cảm sâu xa nhất trong trái tim con người, tạo nên sự đồng cảm có sức lan tỏa mạnh mẽ.

Người cha cũng không quên nhắc nhở con yêu về tình nghĩa quê hương nguồn cội, về con người và núi rừng Tây Bắc, nơi chôn nhau cắt rốn bao đời trong niềm tự hào lớn lao:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Từ trong gia đình, nhà thơ mở ra không gian rộng lớn để con hiểu biết, trân trọng và gìn giữ. Tuy có chút vội vàng nhưng đó lại là tin thiết tha mà người cha muốn con thấu hiểu. Đối với người cha, đất và người là cội nguồn của mọi sự sống, mọi tinh thần. Đất và người nuôi ta khôn lớn, cho ta sức mạnh, tình yêu và sự sống; hình thành cho ta nền văn hóa, tư tưởng và khát vọng chinh phục. Bởi thế, ba tiếng “người đồng mình” vang lên nghe tha thiết vô cùng. Nó chứa đựng cái tình, cái nghĩa thắm ngọt của quê hương, bản làng. "Người đồng mình" là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi "con ơi" kết hợp với từ tình thái "yêu lắm" (“yêu lắm” là cụm tính từ) làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết.

Cội nguồn sinh dưỡng đích thực của đời người chính là quê hương, nguồn cội, là đất, là rừng, là con đường thắm đượm nghĩa tình dẫn bước ta đi. Người đồng mình luôn lấy cái tươi đẹp làm nguồn sống của mình, lấy tình yêu thương làm cái để cho tặng. Người cha mong muốn con phải biết “người đồng mình” đã sống như thế ấy, mạnh mẽ và thủy chung, bình dị mà tươi đẹp, trong sạch, vững bền. Ho biết trân trọng cái đẹp và không ngừng làm đẹp cho cuộc đời mình dù hết sức nhỏ bé. Tác giả đã lựa chọn đưa vào những hình ảnh đẹp đẽ “nan lờ cài đan hoa” và tươi vui “vách nhà ken câu hát” khi tâm tình với con về cuộc sống lao động của “người đồng mình”. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của "người đồng mình" được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: "đan lờ" – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành "cài nan hoa"; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những "câu hát" - chiều văn hóa, lối sống của "người đồng mình". Những động từ "đan", "cài", "ken" vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi. Những động từ “đan, ken, cài” bên cạnh việc giúp cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con người trên quê hương còn gợi ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và của quê hương xứ sở. Phải chăng đó chính là nguồn cội nuôi dưỡng tâm hồn con người?

Và nói đến quê hương cũng là nói đến cảnh quan đặc trưng của nơi con người cụ thể sinh ra và trưởng thành từ đó. Quê hương của “người đồng mình” gắn với hình ảnh rừng. Cảnh quan miền núi, hiện ra thật thơ mộng, đẹp đẽ bằng hình ảnh “rừng cho hoa”. Hình dung về “rừng” ta hình tượng là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những bí mật bất trắc của rừng. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh hoa để nói về cảnh quan rừng. Trong tiếng Việt, hoa nhiều khi được hiểu như những gì đẹp, quý. “Hoa" là sản phẩm của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. “Hoa” là một tín hiệu thẩm mĩ đáng giá, góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó.

Thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dữơng con người cả về tâm hồn, lối sống. Những "con đường" là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những "người đồng mình". Những "con đường" ấy được tạo nên bởi những "tấm lòng" nhân hậu, bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng... Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây. “Con đường cho những tấm lòng”, vẻ như mộng ấy của thiên nhiên, nghĩa tình sâu đậm ấy của “những tấm lòng” đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con. Quê hương hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương với con. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong lâm hồn mỗi người.

Và con hãy ghi nhớ điều đó trước khi đời sống vật chất chưa kịp chạm đến tâm hồn và thổi bùng những tham vọng trong con, như cha mẹ nhớ về khoảnh khắc thiêng liêng này:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của "ngày cưới". Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời. Không chút triết lí cho một lời gửi gắm hết sức đơn giản nhưng rất quân trọng đối với mỗi đời người. Điều mà người cha muôn nói là con phải biết trân trọng cuộc đời, trân trọng quê hương với những gì bình dị, thiêng liêng nhất. Đó là nguồn sống, là sức mạnh bất diệt dẫn bước con vượt qua thử thách hướng đến tương lai.

   Y Phương góp thêm một tiếng nói yêu thương của cha mẹ đối với con cái cũng như những kì vọng lớn lao, mong muốn thế hệ sau sẽ kế tục, phát triển những truyền thống quý báu của quê hương. Bằng cách diễn đạt mộc mạc “thô sơ”, bằng những hình ảnh cụ thể mà giàu khái quát, Nhỏ nhẹ như lời tâm tình thủ thỉ, bài thơ thể hiện vẻ đẹp tình cha con thắm thiết. Qua lời tâm sự, dặn dò con trẻ lúc ban sơ, người cha thể hiện niềm tự hào lớn lao về nguồn cội quê hương và mong muốn con sau này phải trân trọng, gìn giữ lấy những giá trị cao đẹp mà người đồng mình đã muôn đời gìn giữ.

 

Liên hệ về Tình yêu Quê hương ( Cả tác phẩm)

Khi đọc những lời thơ này, chắc hẳn nhiều người liên tưởng đến một bài thơ quen thuộc: bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân. Không chọn cách nói hoàn toàn giống Y Phương trong “Nói với con” song những điều tác giả muốn nói lại có những điểm tương đồng. Trong hình thức trả lời cho câu hỏi của một em bé;

 Quê hương là gì hở mẹ?

Mà cô giáo dạy phải yêu!

 Quê hương là gì hở mẹ!

Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”

Tác giả đã đi đến định nghĩa quê hương trong hàng loạt những câu trúc khẳng định: Quê hương là chùm khế ngọt! Đường đi học! Cánh diều! Con đò nhỏ! cầu tre nhỏ! Đêm trăng tỏ. Nếu như những hình ảnh núi rừng được Y Phương chấm phá trong Nói với con thì hình ảnh một miền quê mang đậm cảnh sắc nông thôn yên ả cũng hiện ra trong bài thơ Quê hương. Và tác giả của Quê hương cũng luôn láy lại rằng, mỗi cảnh vật cụ thể ấy đều gắn với những hành động của con, với hình dáng mẹ – hình ảnh thân thương nhất đời của mỗi con người. Hai tác giả dường như đã gặp nhau ở cùng một cách hiểu: quê hương là những gì gần gũi thân thương nhất và cũng là nguồn cội của những tình cảm sâu sắc, tha thiết nhất của con người. Và tình cảm cũng sẽ lại khởi nguồn cho những tình cảm lớn lao, bền vững hơn như tình yêu đất nước, như Xuân Diệu đã từng khái quát: “Tình yêu tổ quốc là đỉnh núi bờ sông”. Trong Nói với con chỉ vài câu thơ ngắn, vài lời thơ giản dị nhưng đã mở ra những ý tứ sâu xa, thâm trầm gần như được nâng lên tầm triết lý. Sức mạnh của thơ, quyền năng, sự quyến rũ của thơ là ở đó chăng?

Có thể nói “Nói với con” của Y Phương và bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân là tiếng nói tình yêu quê hương đất nước nồng nàn tha thiết, sự trân trọng và tự hào về người con người quê hương. Các tác giả đã phát hiện ra nét đẹp này trong đời sống tâm hồn của người dân ta trong suốt những năm tháng đầy đau thương, mất mát. Dù đất nước có đói nghèo lam lũ, có quê mùa đơn sơ nhỏ bé thì con ơi đừng bao giờ coi thường, từ bỏ hay lãng quên. Bởi đó là nơi ta đã sinh ra và lớn lên, là nguồn cội dưỡng nuôi và che chở, là nơi tổ tiên ông cha đã bao đời sinh sống, lập nghiệp, nơi chứa đựng biết bao nghĩa tình, kỉ niệm thiêng liêng gắn bó. Nếu ai đó quay lưng ngoảnh mặt từ bỏ cội nguồn quê hương đất nước thì mãi mãi con người đó không thể khôn lớn trưởng thành, và đó là hành động vong ơn bội nghĩa đi ngược lại với những giá trị truyền thống tốt đẹp của ông cha. Phải mang trong mình một tình yêu quê hương làng bản mặn mà, nồng nàn, thắm thiết thì hai nhà thơ mới căn dặn con mình một cách chân thành thiết tha đến thế.

Kết bài về Tình yêu Quê hương

Đây là hai bài thơ thành công về đề tài quê hương đất nước thể hiện tình yêu quê hương giản dị mà sâu nặng, nhỏ bé mà lớn lao, chân thật mà tinh tế của hai tác giả. Cùng một đề tài, cùng một cảm xúc nhưng mỗi bài thơ lại in đậm dấu ấn riêng của từng nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Quê hương chính là điểm tựa tinh thần, là động lực cho mỗi con người vượt mọi khó khăn, gian khổ để xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp.

 

Liên hệ về Tình yêu Quê hương (1 Đoạn thơ)

Ta cũng có thể cảm nhận sâu sắc niềm yêu mến và lòng tự hào về quê hương, đất nước thiết tha của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ như một lời tâm niệm chân thành, gửi gắm tha thiết của nhà thơ để lại với đời. Niềm tự hào lớn lao của Thanh Hải và lòng tha thiết yêu mến, ước muốn gắn bó với nhân dân, đất nước, với cuộc đời biết bao tươi đẹp được thể hiện thật cảm động trong khổ thơ:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Mùa xuân của đất nước càng thêm rạo rực với hình ảnh người cầm súng (những người làm nhiệm vụ chiến đấu) và hình ảnh “người ra đồng”. Từ “lộc” biểu hiện của niềm hi vọng tươi sáng đang theo con người đi khắp nơi hay hay chính họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước. Đất nước  đang đổi thay, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng. Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.  Hình ảnh ẩn đụ “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai. Những con người Việt Nam tất bật khẩn trương trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa với tâm trạng náo nức rộn ràng. Không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Nhà thơ Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ này.

Hai đoạn thơ là niềm tự hào lớn lao, là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó của nhà thơ Thanh Hải và Y Phương với đất nước, với cuộc đời. Tình yêu cuộc sống, tình yêu quê hương đất nước lúc nào cũng tràn trào trong lòng các nhà thơ. Từ giọng thơ khoáng đạt, hình ảnh thơ ấn tượngĩ, ta cảm nhận được niềm tin tưởng của hai tác giả Thanh Hải và Y Phương vào tương lai của dân tộc Việt Nam. Âm thanh tình yêu đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Niềm tự hào về đất nước cứ lâng lâng chảy trào trong huyết mạch khiến hai  nhà thơ bồi hồi nghĩ về bổn phận đối với nhân dân, với quê hương, đất nước, sống làm sao cho xứng đáng với truyền thống và lịch sử hào hùng của dân tộc mình. Hai bài thơ đã khép lại nhưng cảm xúc mãi cuộn trào mãi không thôi

Kết bài về Tình yêu Quê hương (1 Đoạn thơ)

Đọc 2 bài thơ Nói với con của Y Phương và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ta nhớ lại những truyền thống dựng nước, giữ nước thật hào hùng của dân tộc ta nhân tộc ta nhận thấy niềm tự hào mà nhà thơ Thanh Hải, Y Phương thể hiện trong hai bài thơ rất thực rất chân thành và đầy ý nghĩa. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị như củ khoai, hạt lúa mà chất chứa bao ý nghĩa sâu xa giúp người đọc chúng ta hình dung những bước chân mạnh mẽ, vững chắc của dân tộc, trong quá trình dựng giữ và xây dựng đất nước. Quá trình ấy đã làm nên lịch sử thật vẻ vang, thật đáng tự hào như chính lòng tự hào cao độ của các nhà thơ. Ý thơ truyền cho ta sức mạnh và thêm tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Thêm một lần nữa, hình ảnh đất nước được tạc nên bằng nghệ thuật ngôn từ đặc sắc trong tình yêu thương vô hạn của hai nhà thơ.

 

Liên hệ về Tình cha (1 Nhân vật văn học)

Nếu người cha miền núi Y Phương, trong tình yêu con có tình yêu và niềm tự hào về quê hương làng bản. Người cha ấy muốn truyền cho con trọn vẹn tình yêu ấy, muốn con phải trở thành người Tày chân chính để góp phần nâng cao tầm vóc thôn làng. Thì người cha chiến sĩ - ông Sáu – yêu thương con và nặng lòng yêu nước. Anh đành phải nén lại tình riêng mà tham gia chiến đấu. Tình yêu gia đình là động lực để anh đối mặt với khó khăn gian khổ.

Chiến tranh có thể tàn phá những gì trên đường nó đi qua, duy nhất tình cảm gia đình không bom đạn nào có thể hủy diệt được.  Điều này thể hiện rõ qua đoạn trích từ tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Tình yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu gửi gắm trong chiếc lược ngà mà anh làm tặng cho con khiến người đọc vừa yêu mến vừa xót xa. Tình cảm của ông Sáu dành cho con sâu nặng trong sự hy sinh thầm lặng. Xa con từ nhỏ chưa từng được ôm con nghe con gọi tiếng ba. Ở chiến trường, nỗi nhớ con luôn giày vò ông Sáu, chính vì vậy về tới quê, nhìn thấy Thu, ông đã nhảy vội lên bờ và định ôm hôn con cho thỏa nỗi nhớ mong. Mấy ngày về phép, ông luôn tìm cách gần gũi con mong bù lại cho con những tháng ngày xa cách dù cho bé Thu hiểu lầm có thái độ hỗn hào phản kháng, ông vẫn kiên nhẫn chiều chuộng, thuyết phục. Lúc ra đi, ông âm thầm, lặng lẽ nhìn con, chỉ khi bé Thu nhận ra ba và nhảy lên ôm chặt lấy cổ ba, lúc bấy giờ nước mắt ông mới trào ra. Những ngày ở căn cứ, lúc rảnh rỗi là ông gửi hết tình thương con vào việc làm chiếc lược ngà. Trước lúc hy sinh, điều mà ông nghĩ tới duy nhất là nhờ đồng đội mang chiếc lược về cho con. Tình cảm yêu thương con sâu nặng của ông Sáu làm cho người đọc xúc động và thấm thía nỗi đau thương mất mát, éo le do chiến tranh gây ra. Nhưng điều đáng quý nhất trong cái mất mát ấy đó là tình cảm cha con, tình cảm muôn thuở có tính nhân bản bền vững, tình cảm ấy bất diệt trước sự hủy diệt tàn khốc của chiến tranh.

Tình cảm gia đình – tình cha con là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi người. Mỗi nhà thơ, nhà văn bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và đánh thức tình cảm tốt đẹp của con người về tình cảm gia đình. Vẻ đẹp của tình cảm gia đình – tình cha con trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của thơ ca dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng - một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.

Kết bài về Tình cha

Tình cha đối với con ở hai hoàn cảnh khác nhau, cách biểu hiện khác nhau nhưng đều có điểm chung là tình thương yêu hết sức sâu sắc, đằm thắm, thầm lặng và đầy sự hy sinh. Qua các tác phẩm văn học, ta thấy được những người cha khắp mọi miền đất nước, dù ở hoàn cảnh nào cũng dành cho con tình yêu tha thiết sâu nặng. Cha mẹ đâu chỉ bao bọc, chở che cho con mà còn mong muốn dạy cho con bao điều tốt đẹp để hoàn thiện nhân cách.Tình cảm cha con nói riêng, tình cảm gia đình nói chung là tình cảm quý báu, mỗi người cần biết trân trọng, giữ gìn, phát huy.

 

Liên hệ thực tế về Vai trò của người cha

Ông bà ta ngày xưa đã có câu “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”; việc gia đình, giáo dục con cái là của người mẹ, còn việc kiếm tiền là của người cha. Nhưng thực tế vai trò, trách nhiệm của người cha và người mẹ trong gia đình là như nhau, con trẻ không thể thiếu được sự dạy dỗ và tình thương yêu của một trong hai người.

Người cha trong gia đình thường được coi như một “nóc nhà” che chắn cho cả gia đình, là nhân tố quan trọng để trẻ được học tập và phát triển tốt, tạo ra mái ấm của gia đình. Chính vì vậy nên vai trò của người cha vô cùng quan trọng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái, bởi vì người cha chính là trụ cốt cho cả gia đình dựa dấm, là người có khả năng chính tỏng việc tạo dựng kinh tế gia đình. Đây cũng là nơi để cho vợ và con cái được nương tựa  Trong tình hình biến đổi kinh tế cũng như văn hóa hiện nay thì vai trò của người đàn ông trong gia đình càng được đề cao, nhất là trong việc giáo dục con cái. Người cha cũng là người có thể định hướng tương lai cho con, giúp con làm chỗ dựa tinh thần, giúp con tự tin hơn khi bước vào đời.

Cha là bắt đầu cho nguồn gốc, lý tưởng và tương lai. Còn mẹ là bắt đầu cho sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Sự thành công và hạnh phúc của một đứa trẻ không thể thiếu sự chăm sóc, dạy bảo của đấng sinh thành. Vì vậy, cả bố và mẹ hãy luôn dành thời gian cho con, cùng nhau có cách nuôi dạy con thật tốt để làm nền tảng cho trẻ bước vào đời.

Kết bài về Vai trò của người cha

Bài thơ “Nói với con” đi vào trong lòng người đọc bởi sự dịu dàng, nhưng nhiều triết lý sâu sắc, bởi tình yêu âm thầm nhưng mãnh liệt của tình cha dành cho con. Tình phụ tử thiêng liêng mà cao quý. Cha chẳng quản gian lao, vất vả để nuôi dạy con, mong cho con khôn lớn nên người. Mặc dù chưa làm tròn chữ hiếu, chưa thể làm cha vui nhưng con hiểu được những lầm lỗi và luôn dặn lòng cố gắng để không phải để cha phiền lòng. Tình cha chính là thứ động lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người.

 

Liên hệ về Vai trò gia đình

Yếu tố gia đình chịu trách nhiệm ban đầu đối với quá trình phát triển của con trẻ/cá nhân, ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành phẩm chất, nhân cách gốc của con trẻ. Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng và nhân cách của mỗi con người, mà nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại… Trong hành trình đó, lứa tuổi ấu thơ được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình là giai đoạn quan trọng, mặc dù khi đó, nhân cách chưa được thể hiện rõ ràng, song thông qua hành vi bắt chước hành động của người lớn, con trẻ bắt đầu thu nhận các tương tác nhân - sinh - quan để hình thành nhân cách của mình. Để con trẻ trở thành một người có nhân cách tốt, việc giáo dục của mỗi gia đình đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, giáo dục con trẻ không chỉ dừng lại ở lời nói hay mà phải bằng những cử chỉ, việc làm đẹp, bởi mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn, nhất là cha mẹ có tác động trực tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của con trẻ. Người xưa thường nói “dạy con từ thuở còn thơ”, cho nên, việc thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử chỉ, lời nói lễ phép, kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo… để khi trưởng thành con trẻ thấu hiểu, biết ơn đấng sinh thành, nuôi dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ là hết sức cần thiết.

Cha mẹ, ông bà không chỉ giáo dục con trẻ đạo đức và văn hóa gia đình, giáo dục lao động, giáo dục phát triển trí tuệ, giáo dục thể lực toàn diện, giáo dục thẩm mỹ; trong đó, việc giáo dục, dạy dỗ về thái độ, cử chỉ, giao tiếp và ứng xử lễ nghĩa, kính trọng người già, chăm lo, nhường nhịn người nhỏ tuổi; uốn nắn, phê phán, ngăn chặn thái độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu của con trẻ mà còn rèn tính tự giác trong học tập, suy nghĩ, sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp, kỹ năng sống… giúp con trẻ hình thành nhân cách, sớm ý thức được trách nhiệm của mình đối với mọi người và mọi người đối với mình trong gia đình. Văn hóa gia đình chính là thành lũy kiên cố để bảo vệ và giúp con trẻ duy trì, phát huy được những giá trị chân, thiện, mỹ từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, khơi dậy cho con trẻ những ý tưởng sáng tạo, hình thành lối sống lành mạnh, góp phần vào quá trình giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách con người.

Kết bài về Vai trò gia đình

Gia đình không chỉ là tế bào tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội, vì thế, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng tế bào phải phát triển bền vững, để xã hội tồn tại và phát triển. Trong mỗi gia đình, vai trò của cha mẹ có vị trí tối quan trọng. Theo truyền thống Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo. Còn người mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm yêu thương trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Vì thế, gia đình là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành nhân cách cho trẻ em.