Bác đã đi rồi sao Bác ơi !
Mùa
thu đang đẹp nắng xanh trời
Miền
Nam đang thắng mơ ngày hội
Đón
Bác vào thăm thấy Bác cười.
(Tố
Hữu, Bác ơi !)
Ngày
2/9/1969, Bác Hồ kính yêu đã vĩnh viễn ra đi, để lại muôn nỗi tiếc thương cho
bao người dân Việt Nam. Nhiều bài thơ khóc Bác được các nhà thơ viết nên với
tất cả lòng thành kính, yêu thương. Bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương dù ra
đời rất muộn, tháng 4 – 1976, nhưng vẫn tạo ấn tượng mạnh trong lòng người đọc
bởi tình cảm sâu lắng nhưng mãnh liệt của một đứa con miền Nam lần đầu tiên
được thấy Bác trong lăng. Nhận xét về bài thơ, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 – NXBGD
có viết : " Bài thơ có giọng điệu trang trọng, tha thiết,
nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm. Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc"
Qua
việc tìm hiểu và phân tích hai khổ cuối của bài thơ, chúng ta sẽ làm sáng tỏ vấn
đề này.
Theo
dòng người nối tiếp nhau vào trong lăng, niềm xúc cảm của nhà thơ chợt dâng
trào và òa vỡ thành tiếng thổn thức khi nhìn thấy Bác :
Bác
nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa
một vầng trăng sáng dịu hiền
Cụm
từ giấc ngủ bình yên là phép nói giảm nói tránh trong thơ. Tác
giả không chỉ dừng lại ở việc giảm nhẹ sự đau buồn mất mát khi nói về cái chết
mà còn miêu tả rất thực hình ảnh Bác trong lăng. Sự ra đi của Bác thanh thản và
nhẹ nhàng như bước vào giấc ngủ an lành, tự tại. Giấc ngủ ấy chỉ có được ở
những người có tâm hồn cao đẹp, biết sống vì hạnh phúc của mọi người. Khi ra
đi, họ sẽ không vướng mang, ràng buộc, ung dung tự tại “Vào cuộc trường sinh
nhẹ cánh bay ”. Bác Hồ chính là người như thế, cả cuộc đời Bác chỉ lo
cho dân cho nước, cho hạnh phúc của muôn nhà :
Bác
để tình thương cho chúng con
Một
đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong
manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn
tượng đồng phơi những lối mòn.
(Tố
Hữu, Bác ơi !)
Bác
nằm trong lăng, bao phủ quanh Bác là ánh sáng dịu dàng huyền ảo của ánh đèn.
Trong cảm nhận của tác giả, đó là ánh sáng của vầng trăng tròn lung linh huyền
diệu. Hình ảnh liên tưởng gợi ta nhớ đến cuộc đời hoạt động Cách mạng của Bác
và sự gắn bó tri âm tri kỉ giữa Bác với trăng. Trong những tháng ngày bị tù đày
trong nhà lao của chính quyền Tưởng Giới Thạch, ánh trăng không ngại ngùng
xuyên qua sóng cửa vào tận chốn tăm tối của ngục tù để nhìn ngắm người tù cách
mạng :
Người
ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng
nhòm khe cửa ngắm nhà thơ (Hồ Chí Minh,Ngắm
trăng)
Bước
vào cuộc kháng chiến trường kì, vầng trăng cũng theo Bác vào tận chiến khu Việt
Bắc. Trăng tỏa ánh sáng bạc đầy thuyền trong một đêm xuân, làm cho cuộc kháng
chiến đầy gian khổ ác liệt bỗng trở nên thi vị :
Giữa
dòng bàn bạc việc quân
Khuya
về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Hồ
Chí Minh, Rằm tháng Giêng)
Đẹp làm sao, lúc sinh thời Bác cùng trăng
bầu bạn, đồng hành qua bao chặng đường Cách mạng. Giờ đây, đến khi Bác ra đi
ánh trăng vàng cũng tiếp tục đồng hành đưa tiễn Người vào cõi hư vô.
Đến đây, bỗng nhà thơ cảm thấy trào dâng
một niềm đau vô hạn :
Vẫn
biết trời xanh là mãi mãi
Mà
sao nghe nhói ở trong tim
Hình
ảnh ẩn dụ trời xanh để chỉ Bác. Trời xanh bao la kia kéo dài
đến vô tận, cũng như Bác luôn sống mãi trong lòng bao thế hệ người dân Việt
Nam. Hai câu thơ xây dựng theo hình thức đối lập, giữa cái biết và
cảm giácnhói trong tim. Biết là lí trí và nhói là
cảm xúc. Lí trí vẫn luôn nhắc nhở nhà thơ rằng Bác vẫn sống trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng
– Bác đã không còn. Hai sự việc đối lập trong cùng một thể thống nhất: tình cảm
kính yêu đối với Bác.
Trong
bài thơ, tác giả Viễn Phương sử dụng hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác và
liên quan đến Bác : mặt trời rất đỏ, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh.
Những hình ảnh mang tầm vũ trụ kì vĩ như muốn nói lên một điều, Bác đã hóa thân
vào vũ trụ vĩnh hằng, để sống mãi trong lòng dân tộc.
Rời
lăng Bác, niềm xúc động thiêng liêng trào dâng mãnh liệt thành những vần thơ
tha thiết yêu thương :
Mai
về miền Nam thương trào nước mắt
“Mai
về ”,
một cách nói để chỉ khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi, nhà thơ không còn ở bên
Bác bao lâu nữa. Từ “thương ” đậm chất Nam Bộ vang lên
thể hiện lòng biết ơn, là tình yêu, tấm lòng kính trọng cuộc đời cao
thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi niềm đau xót khi mất Bác.
Những cảm xúc dồn nén bỗng tuôn trào thành niềm ước nguyện thiết tha thành
kính :
Muốn
làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn
làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn
làm cây tre trung hiếu chốn này.
Điệp
ngữ Muốn làm cùng nhịp thơ dồn dập vang lên như lời khẳng định
khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. Đó là mong muốn được hòa nhập, hóa thân vào
những sự vật quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác. Ước nguyện làm một con chim
nhỏ cất tiếng hót vui say trong những sớm bình minh bên lăng Bác,
nguyện làm một đóa hoa tỏa hương thơm vấn vương không gian ở quanh lăng. Không
phải tình cờ mà chúng ta bắt gặp sự trùng hợp đến lạ kì trong ước nguyện hóa
thân của các nhà thơ. Trong Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải cũng
có cùng một khát khao dâng hiến như thế :
Ta
làm con chim hót
Ta
làm một cành hoa
Nhà
thơ Tố Hữu cũng thế :
Nếu
là con chim, chiếc lá
Thì
chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Nguyện
ước đơn sơ ấy xuất hiện cả trong những giai điệu của nhạc sĩ Trương Quốc
Khánh :
Nếu
là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu
là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương.
(Tự
nguyện)
Nguyện
làm con chim để cất cao tiếng hót cho đời thêm rộn rã âm thanh, nguyện làm một
đóa hoa để khoe sắc tỏa hương thơm cho cuộc đời thêm tươi đẹp. Đó là những khát
vọng chân thành và khiêm tốn mà các tác giả mong muốn được hiến dâng. Nguyện
ước ấy thật đáng trân trọng biết bao.
Bài
thơ mở đầu bằng hình ảnh hàng tre và kết thúc bằng cây tre trung
hiếu. Lối kết cấu đầu cuối tương ứng trong thơ đã làm cho mạch thơ
được xuyên suốt. Hàng tre là biểu tượng cho dân tộc, cây tre là biểu tượng cho
cá nhân. Tác giả bày tỏ ước nguyện được thành một cây tre trung
hiếu đứng trong hàng quân danh dự canh giữ cho giấc ngủ bình yên
của Bác, muốn được sống xứng đáng với truyền thống dân tộc. Đặc biệt, xứng đáng
với lời dạy của Bác Hồ : “Trung với Đảng – Hiếu với dân ”.
Tóm
lại, với những từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc, nhiều hình ảnh ẩn dụ trang
trọng cùng giọng thơ trang nghiêm thành kính, Viễn Phương đã
bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra
miền Bắc viếng lăng Bác. Tình cảm ấy cũng là một tiếng nói chung của đồng bào
miền Nam, nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu của mình. Bài thơ Viếng
lăng Bác được bao thế hệ bạn đọc nhắc mãi cũng vì lẽ đó.
Nguồn : Thầy đồ Nguyễn Long Giang