Tham khảo và chỉnh sửa từ dinhnghia.com.vn
Cha
là bóng cả ngã che con
Là
suối tình thương không bao giờ vơi cạn. (Ca dao)
Quả
thật, nếu tình mẫu tử ngọt ngào và bao la như biển khơi, ôm ấp và vỗ về ta thì
tình phụ tử lại càng thiêng liêng và cao cả gấp bội. Đối với người con, hình
bóng của cha chính là “bóng cả”, là “suối tình thương” và là tấm gương sáng cho
con noi theo. Chính vì lẽ đó mà tình phụ tử luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho
biết bao thi nhân xưa và nay. Trong đó có Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày với
những tác phẩm mang âm hưởng của miền núi non đại ngàn. Bài thơ giúp ta hiểu
thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm
gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Lời
tâm tình của người cha đối với đứa con mộc mạc mà sâu sắc:
Người
đồng mình thương lắm con ơi
Cao
đo nỗi buồn
Xa
nuôi chí lớn
Dẫu
làm sao thì cha vẫn muốn
Sống
trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống
trong thung không chê thung nghèo đói
Sống
như sông như suối
Lên
thác xuống ghềnh
Không
lo cực nhọc
Người
đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng
mấy ai nhỏ bé đâu con
Người
đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn
quê hương thì làm phong tục
Con
ơi tuy thô sơ da thịt
Lên
đường
Không
bao giờ nhỏ bé được nghe con
Nghe
con.
Bài
thơ “Nói với con”, được sáng tác năm 1980. Như lời tác giả chia sẻ, năm 1979, vợ
chồng ông đón chào đứa con đầu lòng và bài thơ này được ông sáng tác để tặng
riêng con gái khi cô được một tuổi. Bài thơ ca ngợi tình cảm gia đình, những phẩm
chất cao đẹp của người đồng mình và tình yêu quê hương, đất nước trong bối cảnh
còn rất nhiều khó khăn, gian khổ sau cuộc chiến vừa đi qua. Bài thơ có 28 câu,
thường chia theo bố cục ba phần, trải dài qua đó là lời nói ân tình của người
cha đối với con về đạo làm người, về lẽ sống vượt lên mọi nghịch cảnh bằng niềm
tin về văn hóa truyền thống của dân tộc. Tình cảm và lời nhắn gửi dành cho con
trong khổ cuối bài thơ đã thể hiện khái quát tình yêu thương bao la mà người
cha đã ấp ủ.
Phần
đầu bài thơ, tác giả đã mang đến lời thủ thỉ về nguồn cội sinh dưỡng của mỗi
người. Đó chính là những khoảnh khắc hạnh phúc, yêu thương trong vòng tay của
gia đình, xóm làng. Đến khổ thứ hai, người cha ân cần nhắc nhở con về những phẩm
chất cao đẹp của dân tộc mình qua tiếng gọi “người đồng mình”:
Người
đồng mình thương lắm con ơi
Cao
đo nỗi buồn
Xa
nuôi chí lớn.
Câu
thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi” được lặp lại một lần nữa. Có lẽ
tác giả muốn khắc sâu vào tâm trí con những điều tốt đẹp và phẩm chất của người
đồng mình. Điệp ngữ “Người đồng mình” được lặp lại nhưng không còn là “yêu”
mà là “thương”. Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi
bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến
đây niềm ước vọng càng thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”."Thương"
là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân
thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Tình cảm được
nâng lên nhiều lần bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của
con người quê hương. Chính vì thế, "người đồng mình" – những con người
cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia
và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn. Người
cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí
mà người đồng mình đã trải qua. Người cha thương buôn làng còn nghèo đói, còn vất
vả, khó khăn nhưng cũng chính từ đó con hãy tự hào với sức sống của dân tộc
mình.
Nhà
thơ sử dụng nghệ thuật tương hỗ lấy “cao” so với “nỗi buồn”, lấy
“xa” so với “chí lớn” thể hiện hình ảnh gần gũi, đậm chất tư duy
của người miền núi. Y Phương đã diễn tả những trạng thái khác nhau của "người
đồng mình". "Nỗi buồn – chí lớn" là khái niệm vô hình
nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. "Người đồng
minh" buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết
bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn
tới được tầm cao văn minh, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng
"Người đồng mình" không bao giờ nhụt chí, mà luôn mạnh mẽ, vững
vàng đối diện với những khó khăn, thách thức ấy, đưa quê hương tiến lên phía
trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn minh. Câu thơ giản dị, mộc mạc, chân
chất những đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân
vùng cao. Con cũng đừng mặc cảm,tự ti mà trái lại hãy nghĩ tích cực, tự tin và
sống mạnh mẽ. Hai câu thơ “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn” không chỉ
là bài học người cha muốn gửi riêng đến con mà Y Phương của muốn gửi đến bao
người.
Tình
cảm và ước muốn của người cha ngày càng mạnh mẽ và kiên quyết hơn:
Dẫu
làm sao thì cha vẫn muốn
Sống
trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống
trong thung không chê thung nghèo đói
Sống
như sông như suối
Lên
thác xuống ghềnh
Không
lo cực nhọc
Cha
nói với con, dạy bảo con về đạo lí làm người. Trong bất cứ thời gian nào, hoàn
cảnh nào "cha vẫn muốn", cha vẫn mong con biết ngẩng cao đầu và sống
đẹp.
Nếu
như hội họa, người họa sĩ dùng đường nét để sáng tạo, âm nhạc, người nghệ sĩ
dùng âm thanh để tạo nên tác phẩm hay trong điêu khắc dùng hình khối để sáng
tác thì văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu. Nhà thơ đã chọn lọc, sử dụng điệp
từ “sống” cùng phép liệt kê “đá, thung” đã khắc họa một bức tranh
làng bản núi đồi thật đẹp. Cuộc sống của người miền núi được nhà thơ đã sử dụng
rất nhiều những hình ảnh để nói tới như: "đá gập ghềnh",
"thung nghèo đói", "lên thác xuống ghềnh" có
ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang
phải đương đầu. Điệp ngữ "sống ... không chê" (2 lần), kết hợp
với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh "như sông như suối"
có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền
núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa. nhà thơ thể
hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với sức mạnh, ý chí thật phóng
khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của
mình. Cụm từ phủ định nhưng mang ý khẳng định “không chê” được tác giả
nhấn mạnh một điều tiên quyết, con không bao giờ được phép quên đi những khó
khăn, vất vả của quê hương mình, con hãy nhớ và không ngừng vươn lên. Dùng thành
ngữ “lên thác xuống ghềnh”, Y Phương gợi ý một cách sống cho con mình đó
chính là hãy sống như tự nhiên, hãy biết mềm dẻo, linh hoạt như con suối của bản
làng để vượt qua những khó khăn trên đường đời. Thành ngữ “lên thác xuống ghềnh”
được tác giả sử dụng ở đây khá đặc sắc, nó tạo âm hưởng thơ thêm trúc trắc,
giàu sức gợi. Nhịp thơ tuôn chảy mạnh mẽ gợi lên sức sống bền bỉ, mãnh liệt của
con người trước vất vả, cực nhọc của cuộc đời. Nhà thơ biết rằng, con cũng như
tất cả mọi người đều có những ước mơ, hoài bão như sông suối vì tất cả đều hướng
ra nơi mênh mông của biển khơi để thấy cuộc đời rộng lớn và có nhiều điều cần
phải học hỏi hơn. Người cha muốn nhắc nhở con về thái độ sống phóng khoáng, mạnh
mẽ. “Không lo cực nhọc” vì khó khăn, thử thách mà con người phải đối mặt
trên cuộc đời sẽ giúp con học được cách tự chủ bản thân, vững vàng trước sóng
gió,
Không
dừng lại ở đó, "người đồng mình" còn hiện lên là những con người bản
lĩnh, mạnh mẽ, giàu nghị lực sống và luôn mang trong mình lòng tự tôn dân tộc với
khát vọng dựng xây đất nước:
Người
đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng
mấy ai nhỏ bé đâu con
Hình
ảnh ẩn dụ “thô sơ da thịt” đối lập “chẳng…nhỏ bé” càng làm toát
thêm vẻ đẹp mạnh mẽ không chỉ ở bên ngoài mà còn tiềm ẩn bên sâu trong tinh thần
của con người miền núi. Hình ảnh "thô sơ da thịt" diễn tả vẻ đẹp mộc
mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của "người đồng mình". Người đồng
mình do cuộc sống vất vả, bước đầu còn gian nan nên vẻ ngoài của họ có phần đen
đúa, thô kệch. Nhưng họ không hề "nhỏ bé" về tâm hồn mà ngược lại rất
giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát
triển quê hương.
Hiểu
rõ hoàn cảnh của quê hương của dân tộc
mình, người cha còn nhắn nhủ con hãy sống có ích và đừng quên đi nguồn cội của
mình. Muốn vậy, "người đồng mình" phải lao động:
Người
đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn
quê hương thì làm phong tục.
Câu
thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động
của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao.
Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự
phát triển của quê hương mình. Cụm từ “tự đục đá kê cao quê hương” thể
hiện ý chí mạnh mẽ, tinh thần tự lực tự cường của người đồng mình. Từ những
công việc vất vả, từ bàn tay lao động của họ sẽ đưa quê hương, đưa đất nước lên
tầm cao mới, phát triển vững mạnh. Nhà thơ không dùng mĩ từ để ca ngợi tinh thần
ấy mà ông chọn từ “đục đá, kê cao” một cách gần gũi và bình dị, đậm chất sử dụng
ngôn ngữ của người dân tộc Tày. Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương"
còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của "người
đồng mình". Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động
của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của
dân tộc mình. Cách diễn đạt đó thật khác lạ song cũng độc đáo không kém. Một
bàn tay gầy dựng nên quê hương rồi từ chính mảnh đất ấy làm nên những phong tục
giàu giá trị. đó là truyền thống, là nét văn hóa cần phải giữ gìn. Đó là cách
thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, là cách nhìn, cách nghĩ nâng niu và trân
quý bao giá trị văn hóa ngàn đời. Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa thực,
vừa có sức khái quát, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu xa. Đọc câu thơ người đọc thấy
người cha như đang nhắn gửi với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng
mình. Tiếng gọi ấy còn được lặp lại trong khổ thơ như một điệu hát ru thân
thương, trìu mến. Người cha tự hào, ca ngợi về phẩm chất tốt đẹp của người đồng
mình: sống rộng mở, bao la, biết kiên trì và trân trọng những nét đẹp truyền thống
của quê hương, nguồn cội. Quê hương và những truyền thống tốt đẹp chính là nền
tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc giúp con người vươn lên.
Để
kết lại trọn vẹn cảm xúc trào dâng ở hai khổ trước, khổ cuối cùng với bốn câu
thơ đã hoàn chỉnh ý thơ thêm trọn vẹn:
Con
ơi tuy thô sơ da thịt
Lên
đường
Không
bao giờ nhỏ bé được
Nghe
con.
Càng
lúc hình ảnh và lời nói của người cha hiện lên càng lớn lao, nhanh chóng thôi
thúc con trên đường đời. Cách so sánh đối lập “thô sơ da thịt” nhưng “không
nhỏ bé” như khẳng định niềm tin cha tin ở con sẽ phát huy được truyền thống
quê hương, sẽ nhớ đến lời cha dạy, sẽ không bao giờ nhỏ bé dù đi bất cứ nơi đâu
và hơn hết là không bao giờ quên đi nguồn cội. Một lần nữa, cha lại gửi gắm nỗi niềm của
mình, mong con ghi nhớ và tự hào những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình, đừng
tự ti mà hãy tự tin, hãy trưởng thành trên đường đời với những hành trang ấy. “Lên
đường” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ con đường đời, con đường đi tới tương lai,
khi đó, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được phép yếu mềm buông xuôi
trước thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con” như một lời cầu khiến
thể hiện sự chân thành, vừa là một lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như
thế hệ trẻ của buôn làng. Giọng thơ nhỏ nhẹ chân tình kết hợp với các từ “con
ơi”, “nghe con” sao mà ấm cúng, thân thương. Đó không còn là lời thơ trang
hoàng mà trở thành một tiếng gọi vang vọng từ tâm hồn sâu thẳm từ đáy lòng của
cha. Rất tự nhiên mà sâu sắc, bài thơ đã động vào dây đồng cảm của chúng ta,
khiến ta phải suy nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mình với quê hương, đất nước.
Sau
tất cả, những lời cha viết nên trên trang thơ cũng chỉ mong con hãy luôn gắn bó
với truyền thống, dân tộc mình, mong con vươn lên bất chấp khó khăn, gian khổ. Khi
đọc bốn câu thơ cuối, ta thấy lời của cha không hề mang ý răn đe, giáo điều mà
là những lời tâm tình thủ thỉ với con như một người bạn lớn. Do vậy, những lời
dạy ấy có thể sẽ khắc sâu vào trong tâm trí con dễ hơn. Lời thơ gửi con cũng
chính là lời gửi đến mình. Ta bắt gặp tiếng thơ đồng điệu với nhà thơ Hoàng
Trung Thông:
Lời
của cha như tiếng sóng thầm thì
Hay
tiếng lòng của cha từ một thời sâu thẳm
Lần
đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha
lại gặp mình trong tiếng ước mơ con. (Những cánh buồm – Hoàng
Trung Thông)
Bên
cạnh giọng thơ thiết tha, trìu mến, các hình ảnh thơ được tác giả lựa chọn vừa
cụ thể vừa có tính khái quát, vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. Đoạn thơ chứa
chan ý nghĩa lại đằm thắm và sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm
vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt đời và
có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ – bài học về niềm tin, nghị lực,
ý chí vươn lên.
Bài
thơ Nói với con đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần
cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc. Nó giúp ta hiểu thêm về sức sống
và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền
thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Bài thơ gửi đến bài học
tích cực về lối sống tự hào dân tộc mình, là việc hòa nhập như không hòa tan đi
chính cá tính của mình, của dân tộc mình.
Nhà thơ thành công trong việc sử dụng thể thơ tự do,
ngôn ngữ thân thuộc, gần gũi và giàu hình ảnh đậm chất vùng núi cao. Bài thơ giản
dị với những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng liên quan đến nếp
sống của người dân tộc Tày, giàu sắc thái biểu đạt và biểu cảm. Cách nói giàu bản
sắc của người miền núi tạo nên một giọng điệu riêng cho lời tâm tình mộc mạc mà
sâu sắc của người cha đối với đứa con.
Qua
những từ ngữ và hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví
von sinh động cùng với giọng điệu thiết tha trìu mến, đoạn thơ đã ca ngợi những
đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Từ đó, người cha nhắn gửi những ước mong
đến con hãy luôn sống ngẩng cao đầu, luôn tự hào về quê hương mà trân trọng,
gìn giữ và yêu mến…Người cha đã dạy con đạo lý cao cả “uống nước nhớ nguồn”, đồng
thời phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình. Bài thơ
chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta thêm
yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
Tiếng
mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết
Ai
cũng vậy xa lâu rồi mới biết
Những
ngôn từ không đủ viết…quê hương!