Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

Hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên thật cao đẹp trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Đó là một con người có khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người. Em hãy làm rõ điều đó qua việc phân tích trích đoạn Hoàng Lê nhất thống chí được in trong sách Ngữ văn 9.


DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
- Trong nền văn học cổ Việt Nam, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí được coi là một cuốn tiểu thuyết tiêu biểu viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Mười bảy hồi của tác phẩm đã ghi lại cuộc sống thối nát của vua quan triều Lê - Trịnh và phong trào phát triển của phong trào Tây Sơn với hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ đánh thắng thù trong giặc ngoài.
- Hồi thứ 14 của tác phẩm đã kể lại lần thứ 3 ra Bắc của Nguyễn huệ với chiến công thần kỳ vào bậc nhất trong lịch sử đại phá 20 vạn quân Thanh chỉ trong 10 ngày và ở đây, hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người mãi mãi là hình ảnh đẹp trong những trang lịch sử chói ngời của dân tộc.
II. THÂN BÀI
1. Trước hết ở Quang Trung là hình ảnh vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt, có hành động mạnh mẽ quyết đoán.
- Sự sáng suốt của Nguyễn Huệ chính là ở việc nhận định tình hình và quyết định lên ngôi hoàng đế:
+ Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng Long thì lúc đó Nguyễn Huệ mới chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo Nguyễn Huệ đã định “thân chinh cầm quân đi ngay” song trước lời bàn của các tướng sĩ, ông đã nhận thấy rằng cần phải lên ngôi hoàng đế, chính vị niên hiệu rồi mới đàng hoàng xuất quân. Ở cương vị của Nguyễn Huệ, việc tiếp thu lời bàn của các tướng sĩ, biết lắng nghe và thực thi những điều ngoài ý định của mình, đó chính là một sự sáng suốt, sự sáng suốt của vị chỉ huy biết làm gì để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. Cho nên chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đã làm xong 2 việc lớn: lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đã kịp thời hạ lệnh xuất quân. Việc lên ngôi trong tình thế cấp bách ấy đủ để thấy sự sáng suốt trong trái tim của con người luôn biết vì đất nước.
+ Quang Trung còn là người mưu lược sáng suốt khi nhận định tình hình của giặc, của ta. Ta hãy nghe Quang Trung dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ra Bắc: “trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đãphân biệt rõ ràng …”. Và để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch, ông đã dẫn ra một hệ thống song hành liên tục: cứ một triều đại phong kiến phương Bắc thì đi liền với một nhân vật kiệt xuất, tiêu biểu phương Nam. Rồi để giúp tướng sĩ nhận ra chân tướng “Phù Lê diệt Trịnh” của Tôn Sĩ Nghị, nhận ra dã tâm, bản chất xâm lược của quân Thanh. Ông khéo léo khích lệ tướng sĩ khi ngợi ca truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ đó mà kêu gọi tướng sĩ “những kẻ có lương tri, lương năng hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn”. Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và nhớ tới “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Có thể nói Quang Trung thật sáng suốt khi nhậns thấy rõ bản chất của kẻ thù và cũng rất sáng suốt khi khơi gợi lòng yêu nước cho nên quân lính nhất nhất “xin vâng lệnh không dám hai lòng”.
- Ở Quang Trung còn là sự quyết đoán mưu lược trước mọi biến cố, quyết đoán trong việc nhìn nhận bề tôi, ở cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một điều quan trọng. Qua lời lẽ phân tích của ông đối với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quân thua chém tướng” song Quang Trung rất hiểu năng lực của họ cho nên ông đã nhận rõ các tướng lĩnh của mình đều là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài”. Vì thế ông đã xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ tướng lĩnh của mình, Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn an ủi động viên họ “biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu ngạo”. Cách hiểu người, dùng người đến mức tri âm tri kỷ mà sáng suốt như thế chỉ có ở Quang Trung. Nhờ có sự sáng suốt am hiểu bề tôi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống như Lê Lợi xưa kia:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước song chén rượu ngọt ngào”
- Ở Quang Trung ta còn thấy một sự sáng suốt thật đáng quý, đó là tầm nhìn xa trông rộng. Cho dù quân Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự sáng suốt tự tin, mưu lược tiến đánh đã sẵn “mười ngày đánh đuổi người Thanh”. Nhưng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính đến đó là “khéo lời lẽ để dẹp yên binh đao” cho nên Nguyễn Huệ đã sáng suốt chọn Ngô Thì Nhậm vào việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nhưng tầm nhìn của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi trước trận đánh, Quang Trung đã chuẩn bị kế hoạch cho mười năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, một đấng minh quân, một người anh hùng tài trí có tầm nhìn chiến lược sâu sắc biết bao.
* Qua việc phân tích tình hình ta, địch, qua việc chuẩn bị kế hoạch 10 năm xây dựng Đại Việt ta có thể khẳng định Quang Trung là con người có tài trí sáng suốt. Đó là điều cần thiết ở một đấng minh quân mà không phải ai cũng có được.
2. Dưới ngòi bút của tác giả Ngô gia văn phái, nhân vật người anh hùng áo vải còn mang vẻ đẹp của vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Tài thao lược của Nguyễn Huệ ở đoạn trích hồi thứ 14 đó là sự nhanh nhẹn của một nhà quân sự, một bậc kỳ tài trong việc dùng binh. Dưới sự sáng suốt trong việc chỉ huy của Quang Trung, đội quân của ông đã lớn mạnh không ngừng. Sáng suốt trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ, tổ chức chiến dịch thần tốc có một không hai trong lịch sử. Nghệ thuật cầm quân và tài năng quân sự, tài thao lược của Quang Trung chính là ở phương diện thần tốc bất ngờ.
+ Tài thao lược của Quang Trung thể hiện ở phương diện chỉ huy thần tốc mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa hết ngạc nhiên: tại sao Nguyễn Huệ có thể vượt qua quãng đường từ Phú Xuân đến Thăng Long chóng vánh, hơn bốn trăm dặm mét trong bốn ngày, một tốc độ di chuyển quân thần tốc và cũng một tốc độ tuyển quân thần kỳ: cứ 3 suất đinh thì lấy 1. Rồi lạ chỉ trong một ngày 30 Tết mà có thể tổ chức được cho quân lính ăn Tết rồi kịp ban bố lời dụ về chủ quyền đất nước. Đó cũng là một ngày đủ để chia thành 5 đoạ quân tiến về Thăng Long rồi dám dự tính đánh tan quân Thanh vào ngày 7 tháng giêng. Tất cả những công việc to lớn ấy chỉ diễn ra trong thời gian tính bằng ngày. Không phải là một bậc kỳ tài thì không thể làm nổi, đó chính là điều kỳ diệu của Quang Trung.
+ Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện rõ khi chọn cách đánh bất ngờ, biết giặc kiêu căng khinh suất là tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng chỉ huy, hoạch định hướng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả tài thao lược được thể hiện rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay. Cách đánh bất ngờ thần tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo vào thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề được tin cấp báo . Vì vậy quân tướng nhà Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn như nhìn thấy “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu (so sánh với Bình ngô đại cáo)
“Thành Đan Xá thây chết đầy núi ….”
Quang Trung cùng với đội quân của mình đánh dấu thêm mốc son chói lọi trong những trang lịch sử hào hùng của dân tộc.
3. Hình ảnh Quang Trung – khí phách hào hùng lẫm liệt.
Quang Trung cưỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung tỉnh táo khác thường. Quang Trung đã tự tin khẳng định 10 ngày đánh đuổi quân Thanh thể hiện trí tuệm sáng suốt, biết làm chủ trong mọi tình thế. Chính phong thái ung dung tự tin của con người có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng.
Dưới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta như nhìn thấy hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ cưỡi trên lưng voi chỉ huy 1 đội quân dàn trận chữ “Nhất” tiến vào Thăng Long.
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
- Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có nhiều ông vua từng thân chinh cầm quân đánh giặc nhưng vừa nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán phương lược, vừa đốc xuất chiến dịch và đi với một mũi tiến công xông pha nơi hòn tên mũi đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi ban mai, trong khói toả mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đã khắc tạo một hình tượng đẹp trong chiến trận. Hình ảnh ấy đã được sử sách còn ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” tấm áo bào đỏ của quang Trung sạm đen khói súng. Quang Trung đã trở thành một hình tượng đẹp đẽ về người anh hùng với khí phách hiên ngang lẫm liệt trong văn học cổ Việt Nam, trở thành một tượng đài bất hủ trong văn học cổ dân tộc.
- Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Họ là những người tôn trọng sự thực lịch sử và có ý thức dân tộc bởi thế họ viết thực và hay về người anh hùng dân tộc Quang Trung.
III. KẾT LUẬN
- Ở tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 là một sự cống hiến vô giá của các tác giả về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung. Hình ảnh Quang Trung trong đoạn trích giống như một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le lói nhưng vẫn sáng ấy, mỗi lúc một cao rộng, lan toả để rồi khắc sâu vào tâm khảm chúng ta vẻ đẹp trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người và một khí phách hào hùng lẫm liệt.
- Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đương thời:
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương …”

Cảm nhận ba khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính"của Phạm Tiến Duật.


Bài viết của cô Nguyễn Thị Kim Lan

 Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết chớ lui.
 Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ - những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính,bài thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ trẻ Việt Nam. Ba khổ thơ cuối là đỉnh điểm của mạch cảm xúc và tứ thơ được nảy nở sáng rõ,để lại ấn tượng trong lòng độc giả về cuộc chiến trang ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn và phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe.
 Bài thơ có bảy khổ thơ ,khổ nào cũng có hình ảnh chiếc xe ,hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ và cái ác liệt cùng sự anh hùng. Từ những chiếc xe tải không kính trên tuyến đường Trường Sơn,xe qua bom giật ,bom rung ,bom rơi ,bom nổ ta vẫn thấy được tinh thần ung dung, bình tĩnh, hiên ngang, dũng cảm của người lính lái xe. Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp của người chiến sĩ,càng đọc ta càng thấy trân trọng, cảm phục phẩm chất của người chiến sĩ lái xe .Bức chân dung đẹp ấy lại được khắc họa rõ nét qua tình cảm đồng chí đồng đội nồng ấm, và tình yêu Tổ Quốc thiêng liêng cao cả, ý chí chiến đấu giải phòng miền Nam.
Ở 3 khổ thơ cuối ,chân dung tâm hồn của người lính lái xe được gợi ra cũng chính từ hình ảnh những chiếc xe không có kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vở rồi
Anh lính lái xe thật nhiều bè bạn. Từ nơi cảm tử, họ tìm về nhau. Câu thơ “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi về cuộc chiến thật ác liệt. Người chiến sĩ lái xe phải đối diện với mưa bom, lửa đạn, với cả thần chết ở bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh ác liệt ấy,điều gì khiến các anh trở về được bình an? Thơ Phạm Tiến Duật đã chỉ ra điều kì diệu ấy: “Đã về đây họp thành tiểu đổi”. Chữ “họp” gợi sự đoàn tụ, sự bảo toàn. Thì ra, vì không thể thiếu nhau, không thể vắng nhau, những người đồng đội ấy đã băng qua mưa bom bão đạn để “về” trong vòng tay nhau, vòng tay của sự sống và chiến thắng. Ta thấy ở họ sáng ngời lên một tình cảm đẹp, tình đồng đội! Tình cảm ấy tạo ra sức mạnh để chiến đấu, chiến thắng. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Chính Hữu cũng đã phát hiện sức mạnh của tình cảm đó trong bài thơ “Đồng chí”. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của những người nông dân mặc áo lính xưa chính là sự thầm lặng sẻ chia cảnh ngộ và cùng chung lí tưởng sống. Hình ảnh “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” có gì đó mới hơn, trẻ hơn. Vẫn là cái bắt tay thân thiện, giản dị, mộc mạc mà gần gũi qua ô cửa kính đã vỡ. Cái bắt tay ấy như lời hẹn chiến thắng, như truyền sức mạnh, như truyền sự tự tin và hào khí tuổi trẻ. Vẫn cái ô cửa kính đó, mà cả một khoảng trời bè bạn, cả tráng khí anh hùng gặp gỡ, hội ngộ.
 Thơ Phạm Tiến Duật không chỉ phát hiện tình đồng đội ở những vẻ đẹp hào hùng, mà còn nhìn nhận dưới góc độ những tình cảm thân thương, đầm ấm. Họ - những con người từ nhiều phương trời, nhiều miền quê, nhưng trong thử thách, họ gắn với nhau thành ruột thịt:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Chữ “bếp”, hình ảnh “bát đũa”,”chiếc võng”…đều là những gì thân thiết trong ngôi nhà của ông bà, cha mẹ ở hậu phương, làm cho hai chữ “gia đình” ẩm cả khổ thơ tiền tuyến. Bằng cách nói giản dị ấy, Phạm Tiến Duật đã phát hiện được độ sâu sắc trong tình đồng đội. Đó là tình bạn, là đồng chí, là chiến hữu, là ruột thịt. Trong quân ngũ, tình đồng đội là tình cảm gia đình, ruột thịt, là tình cảm thật đặc biệt, là sự hòa quyện của tình đồng chí, tình người và tình thương yêu giai cấp. Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xaxôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba cô thanh niên xung phong và những cảm xúc rất riêng của họ. Ta lại nhớ đến các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từ một người mẹ. Sống cùng và chết cũng không lìa xa. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.
 Bài thơ vẫn tiếp tục tô đậm vẻ đẹp của tâm hồn biết yêu thương, mộng mơ, tâm hồn qua thử thách vẫn tươi xanh non mướt qua hai câu thơ:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Những người chiến sĩ kiên cường ấy cùng chiến đấu và cùng chia sẻ với nhau phút dừng chân thật vui thú, thoải mái. Chữ “chông chênh” vừa nói cái không chắc của thế mắc võng, vừa toát lên cái thi vị, tinh nghịch pha chút mạo hiểm rất quen thuộc của kẻ đưa võng. Như ta đã gặp “Ung dung buồng lái ta ngồi”, “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”… Câu thơ “Lại đi lại đi trời xanh thêm” nối tiếp phát hiện khác. Điệp ngữ “lại đi” tựa như nhịp bước hành quân của người chiến sĩ, khó khăn không nản, hi sinh không sờn, những chiếc xe vẫn cứ chạy bon bon ra tiền tuyến. Câu thơ gợi ra sự liên tưởng trong lòng người đọc, ta có cảm giác rằng mỗi đoạn đường xe đi qua như mở thêm một khoảng trời hạnh phúc, bình yên. Và mơ ước nữa chứ! Rất nhiều lần trời xanh hiện ra trong mưa bom ở bài thơ này. Tâm hồn người lính sao mà tươi xanh đến thế!
Tới khổ kết, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khẳng định ý chí, nghị lực, bản lĩnh phi thường sẵn sàng chiến đấu vì miền Nam ruột thịt đang ở phía trước:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần như nhân lên để tổng kết cái khó khăn, khốc liệt của chiến tranh, khó khăn nối tiếp khó khăn, càng đi vào sâu tới những chiến trường nguy hiểm hơn. Và minh chứng cho sự khốc liệt đó là những chiếc xe tải mang trên mình đầy thương tích, với đèn không có, mui không có, cửa kính vỡ, thùng bị xước, bị biến dạng. Trận đánh đến gần ngày toàn thắng thì thử thách đối với người lính càng lớn, hi sinh mất mát chắc chắn sẽ càng nhiều. Nhưng đối lập với những mất mát ấy, là một thứ như thép như đồng tồn tại: ý chí của người lính lái xe. Người lính lái xe vẫn cứ vững chắc tay lái đối diện với con đường vững vàng trên vị trí chiến đấu. Chữ “Vẫn chạy” sao mà gan góc, mà ý chí, mà bướng bỉnh và ngoan cường! Trước mắt chúng ta, những đoàn xe vẫn cứ tiếp tục chạy trên con đường Trường Sơn mua bom bão đạn, những chiến sĩ lái xe vẫn cứ “Ung dung buồng lái ta ngồi” và đoàn xe “Lại đi lại đi trời xanh thêm” vượt lên bom đạn khốc liệt hướng ra tiền tuyến, cùng sát cánh với miền Nam ruột thịt. Và đây là mục đích, là lí tưởng sống của những người lính lái xe trong thời kì ấy và cũng chính là mục đích lí tưởng của những thế hệ thanh niên lớp lớp lên đường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
 Bài thơ dựng lên cuộc chiến đấu với biết bao điều không có: không kính, không mui xe, không đèn. Đến đây nhà thơ hạ bút viết một dòng chữ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến và phẩm chất của anh lính lái xe,ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Hình ảnh hoán dụ “một trái tim” xuất hiện trong câu thơ thật gợi cảm, ta cảm nhận được cuộc sống vui tươi, tình yêu nước nồng nàn cháy bỏng. Nhưng điều gì mãnh liệt nhất, quan trọng nhất? Anh lính đã nói thật tự tin, giản dị, son sắt: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim như ngọn đèn, như mặt trời ở cuối bài thơ như làm ấm, làm sáng rực lên chiến trường nhiều gian khổ.
 Ba khổ thơ của bài đã khép lại con đường tới miền Nam yêu dấu đã tới đích từ mấy chục năm trong sự thống nhất trọn vẹn thương yêu. Nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười “ha ha” của những người lính lái xe can trường. Đơn sơ thế thôi nhưng là những trang hào hùng, là hình ảnh lí tưởng có sức vẫy gọi. Thế hệ nào cũng có những trách nhiệm, những xứ mệnh, những vinh quang và thách thức của mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đánh của mỗi người trẻ tuổi chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở người lính lái xe, ở thế hệ cha ông vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.


Cảm nhận về vẻ đẹp hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.


         Theo cô Hoàng Thị Vĩnh
I.Mở bài:
- Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Thơ ông đậm chất lính. Những trang thơ tác giả viết về người lính thường có giọng điệu ngang tàn, tinh nghịch mà sâu sắc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật ấy. Nhà thơ đã xây dựng hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra trận để làm nổi bật vẻ đẹp người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn,một thời khói bom đạn lửa.
II,Thân bài:
1.Khái quát(Dẫn dắt vào bài):
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ sáng tác vào năm 1969 – đây là thời điểm gay go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung, tự tại, lạc quan, sôi nổi, bất chấp gian khổ hi sinh, tình đồng đội gắn bó và tình yêu đất nước lớn lao.
2.Phân tích:
- Ngay từ những dòng thơ mở đầu, người lính lái xe đã giới thiệu về những chiếc xe đặc biệt của mình:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
  Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Cái hay của câu thơ không chỉ ở nhạc điệu mà còn ở cách nói rất dí dỏm với những lời lẽ tự nhiên, mộc mạc. Ba chữ “không” đi liền nhau cùng động từ “giật”,”rung” khiến câu thơ có cái ngang tàn như lời nói thường, nhưng chứa đựng trong đó là cái nhìn lạc quan của người lính lái xe về sự ác liệt của chiến tranh. Nhà thơ – người lính như đang phân bua, như đang giải thích một cách tinh nghịch cho sự không trọn vẹn của những chiếc xe:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
  Không có mui xe,thùng xe có xước”.
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
  Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Chữ “nhìn thẳng”khiến ta hình dung như họ đang đối mặt thẳng thắn với gian khổ, hi sinh mà không hề né tránh, không hề run sợ. Không có kính chắn gió, người lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:
“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
   Thấy con đường chạy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như “gió” – “con đường”,”sao trời”,”cánh chim”… đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao! Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bội bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn. Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là “Đường ra trận mùa này đẹp lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”. Có thể nói, người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái nhìn bình thản. Con đường chạy thẳng vào tim mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ; đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.
- Vẻ đẹp trong hình tượng người lính lái xe còn được nhà thơ khắc họa cụ thể khi đối mặt với những khó khăn, gian khổ - không chỉ là gió, mà còn là mưa, bụi Trường Sơn:
“Không có kính, ừ thì có bụi
  Bụi phun tóc trắng như người già
  Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
  Nhìn nhau mặt lấmcười ha ha.
 
  Không có kính, ừ thì ướt áo
  Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
  Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
  Mưa ngừng,gió lùa khô mau thôi”.
Lặp cấu trúc câu, cùng với điệp ngữ “ừ thì”,”chưa cần”… nhà thơ đã đem đến cho đoạn thơ giọng điệu ngang tàn, giàu thách thức. Những câu thơ tả thực, những cái “ừ” bất chấp nhưng không hề lộ ra là cẩu thả, luộm thuộm. Hẳn đó là nhờ chất lính, dẫu mưa có tuôn, có xối, dẫu bụi có phun bạc trắng mái đầu thì người lính vẫn “chưa cần thay”,”chưa cần rửa” để lái trăm cây số nữa. Thật là biết đùa cùng gian khó! Giọng thơ đã thể hiện trọn vẹn thái độ bất chấp khó khăn, coi thường hiểm nguy của người lính lái xe. Với họ, những gian khổ khi lái xe không kính ra trận chẳng hề hấn gì. Hai khổ thơ đầy ắp chi tiết hiện thực qua cách dùng từ “xối”,”tuôn”,”phun”. Đó là những gian khổ rất thực như một kiểu hút thuốc phì phèo, một tiếng cười ha ha sảng khoái, một mái đầu bụi phun tóc trắng. Tất cả thể hiện sự bất chấp cuộc sống đầy gian khó bằng niềm vui sôi nổi, trẻ trung và bằng tinh thần lạc quan của người lính lái xe những năm chống Mỹ.
- Một nét đẹp trong hình ảnh người lính lái xe trên đường ra trận là tình đồng chí, đồng đội gắn bó:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
  Đã về đây họp thành tiểu đội
  Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
  Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
 
  Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
  Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Tình cảm của những người lính trẻ được nhà thơ diễn tả rất đúng, rất phù hợp với phong cách của họ. Sau những chặng đường đầy gian khổ,đầy mất mát hy sinh, họ đã cùng nhau họp thành tiểu đội xe không kính. Cái bắt tay của họ rất độc đáo – “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” – một cái bắt tay mang đầy ý nghĩa. Nó là biểu tượng của niềm tin thắng trận, là lời chúc, lời chào,niềm vui và niềm tự hào. Ở đây, nhà thơ đưa ra một khái niệm hết sức mới mẻ về gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Đó là gia đình của những con người cùng chung chí hướng, cùng chung nhiệm vụ. Rõ ràng, những người lính thương yêu nhau như tình ruột thịt. Từ nơi chiến trường ác liệt, họ đã làm thành một gia đình, tạm nghỉ bên nhau, và quây quần trong bữa cơm hội ngộ, để rồi:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
  Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3, như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận. Từ “chông chênh” gợi lên tư thế của người lính, họ vừa đi vừa có người ngủ trên xe, vừa có người chạy xe để xe được chạy liên tục. Từ “chông chênh” giàu sức gợi như tạo hình cho giấc ngủ của người lính. Điệp từ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” khẳng định những người lính như không ngừng tiến tới, không ngừng ra đi vì bầu trời xanh bình yên phía trước, vì viễn cảnh rộng lớn hơn.
- Vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe được nhà thơ hoàn thiện trong sự hài hòa với hiện thực cuộc sống chiến đấu, hài hòa giữa chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn:
“Không có kính rồi xe không có đèn
  Không có mui xe,thùng xe có xước
  Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
  Chỉ cần trong xe cómột trái tim”.
Ba chữ “không” lại một lần nữa khẳng định mức độ ác liệt của cuộc chiến in dấu trên những chiếc xe ra trận: “không kính”,”không đèn”,”không mui” và lại có thêm cái xước. Phép liệt kê cho thấy bom đạn của giặc Mỹ đã làm biến dạng, làm méo mó, làm trơ trụi những chiếc xe ra trận. Song đối lập với những cái “không” ấy là một cái “có” – “Có một trái tim” ở trong xe. “Trái tim”là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng, đó chính là người chiến sĩ lái xe, là sức mạnh và tinh thần quả cảm, là nhiệt huyết của tuổi trẻ, là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu Tổ quốc thiết tha. Hình ảnh này đã khẳng định: khi trái tim cầm lái thì mọi gian khổ, hiểm nguy đều được người lính chấp nhận và vượt qua với tư thế ung dung và niềm vui sôi nổi, lạc quan phơi phới. Hình ảnh này cũng khẳng định bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy được những chiếc xe chứ không thể ngăn cản được nhiệt huyết cứu nước của những con người: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
3. Ý kiến đánh giá, bình luận:
- Chân dung người lính lái xe Trường Sơn được nhà thơ khắc họa chân thực trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với bao phẩm chất cao đẹp. Đó là vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ. Họ là những chiến binh, sống, chiến đấu và chiến thắng trong tư thế hiên ngang, trong niềm lạc quan yêu đời.
III.Kết bài:
-Viết theo thể thơ tự do, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vừa có chất tự sự,vừa thấm đẫm chất trữ tình. Với ngôn ngữ chân thực, đời thường và giọng điệu thơ ngang tàn, hóm hỉnh, bài thơ đã đem đến cho người đọc ấn tượng không thể nào quên về vẻ đẹp của người lính cách mạng. Vẻ đẹp ấy làm sống lại trong mỗi chúng ta một thời gian khổ và hào hùng của dân tộc những năm chống Mỹ.



Suy nghĩ về số phận người phụ nữ thời phong kiến qua nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.


Theo cô Hoàng Thị Vĩnh
I.Mở bài:
Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được hể hiện trong văn học thời trung đại. Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành ông với bài thơ “Bánh trôi nước”, đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác “TruyệnKiều” và Nguyễn Dữ - học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Chuyện người con gái Nam Xương” – thiên thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tu, trăn trở cho người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):
- “Chuyện người con gái Nam Xương”  xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hayghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính.Chàng đi đầy tuần,Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé.  Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi dài những khổ đau, bất hạnh.
2. Phân tích:
a, Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền:
- Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị nết na,lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó “cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó”.Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm“thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu,thô bạo.
- Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tại họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống như cha tôi trước kia…”, làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới,mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng,cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ…Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho.Hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chống đến hóa đá trước đây,cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữtiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ".
-> Qua tác phẩm,ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, chà đạp và ức hiếp con người.
-> Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự , chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khuất  của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ.Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu.
b. Người phụ nữ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
- Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàng lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao,rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài,mẹ già triền miên lo lắng.”
- Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé…Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính,thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình.
=> Có thể nói,sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán:
                                                    “ Đau đớn thay phận đàn bà
                                                Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
c. Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ:
- Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân đạo,chà đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là sự xót xa thương cảm của tác giả trước nỗi oan khiên mà người phụ nữ phải gánh chịu.
III. Kết bài:
Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa thương cảm cho người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh Miện, Hải Dương dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích


Theo cô Hoàng Thị Vĩnh

I. Mở bài:
- “Truyện Kiều” được người đời tôn vinh là “khúc nam âm tuyệt xướng”, là nơi kết tinh tài năng của đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du. Kiệt tác này hấp dẫn người đọc không chỉ ở nội dung mà còn ở nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, sáng tạo, xây dựng nhân vật phong phú , đa dạng… Bút lực của Nguyễn Du còn được khẳng định ở nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài hoa, điêu luyện. Tám câu thơ cuối trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”được coi là những câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm “Truyện Kiều” của ông. Đoạn thơ viết:
                                                     “Buồn trông cửa bể chiều hôm
                                                Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
                                                      Buồn trông ngọn nước mới sa
                                               Hoa trôi man mác biết là về đâu?
                                                     Buồn trông nội cỏ rầu rầu
                                              Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
                                                    Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
                                              Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
II. Thân bài:
1. Giải thích: Bút pháp tả cảnh ngụ tình là gì?
- Tả cảnh ngụ tình là bút pháp quen thuộc trong văn học thời trung đại. Người nghệ sĩ sử dụng ngôn từ miêu tả bức tranh về thiên nhiên tạo vật để thông qua đó gửi gắm tâm tư, tình cảm con người ( nhân vật trong tác phẩm hay chính tâm trạng của tác giả). Ở bút pháp nghệ thuật này, cảnh và tình hòa quyện khó có thể tách rời, song yếu tố ngụ tình mới là cái chủ đích của người nghệ sĩ. Những tứ thơ xuân của Nguyễn Trãi,“Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến… đều đã rất thành công ở nghệ thuật này.
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du sử dụng rất tài hoa, điêu luyện trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Ở đó, tất cả bức tranh về thiên nhiên tạo vật đều được khúc xạ qua cái nhìn, cách nhìn của tâm trạng; qua cảnh ngộ và nỗi niềm của nhân vật. Vì thế, tạo vật trong “Truyện Kiều” lúc nào cũng có một linh hồn, một tình cảm. Đó là linh hồn của Nguyễn Du hòa quyện vào đó tạo cho tác phẩm trở thành một khối tình cảm duy nhất.
- Chính Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cảnh và tình:
                                                      “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
                                                  Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Búc tranh cảnh ngày xuân khi chị em Thúy Kiều khi du xuân trở về, bức tranh mùa thu lúc Thúy Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau hay thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích khi Thúy Kiều bị giam lỏng nơi đây đều là “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:
- Tám câu thơ đặt trong mạch 22 câu thơ của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là khi Thúy Kiều trở về với chính lòng mình, đối diện với chính mình. Từ thương người đã trở thành nỗi thương mình xót xa. Đây là những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất – là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh vật khơi gợi ở Kiều những nồi buồn khác nhau với những lí do buồn khác nhau để rồi tình buồn tác động lại cảnh khiến cảnh mỗi lúc một buồn hơn và nỗi buồn cứ dâng lên như lớp lớp sóng trào.
* Nỗi buồn của Kiều trước khung cảnh cửa bể chiều hôm:
                                                      Buồn trông cửa bể chiều hôm
                                                Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
- Mở đầu đoạn thơ là không gian nơi cửa bể và thời gian là chiều hôm – một không gian, thời gian nghệ thuật vốn rất quen thuộc trong văn thơ cổ. “Chiều hôm” là thời điểm đợm buồn lại được đặt trong không gian rộng lớn “cửa bể” càng gợi vẻ hiu quạnh, thê lương. Trong không gian bốn bề xa trông ấy, giữa trùng khơi sóng nước chỉ thấy thấp thoáng ẩn hiện như hư, như thực ai đó nơi xa. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng xa xa, rồi khuất hẳn giữa mênh mông sóng nước gợi hành trình mờ mịt không biết đâu là bến bờ, nỗi cô đơn, lạc lõng bơ vơ. Cảnh tha hương gợi nỗi nhớ gia đình, quê hương và hi vọng về cuộc đoàn viên đến nao lòng.
* Nỗi buồn của Kiều khi nhìn cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa:
- Trải lòng mình trước không gian nơi lầu Ngưng Bích, tự thân trong lòng mang nặng nỗi buồn, Thúy Kiều trông ra ngoại cảnh. Điểm nhìn từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể. Lúc này, trước mắt nàng là ngọn nước triều cường và hình ảnh cánh hoa trôi nổi giữa biển khơi vô định:
                                                        “Buồn trông ngọn nước mới sa
                                                   Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
- Ở đây, thi hào Nguyễn Du đã cực tả, đặc tả tâm trạng bi thương của Kiều qua những hình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm. “Dòng nước mới sa” hay chính là dòng đời, bể đời vô định; hình ảnh “hoa trôi man mác” phải chăng là thân phận người con gái đang trôi dạt, đang bị vùi dập trước sóng gió cuộc đời? Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”cất lên như một tiếng than diễn tả tâm trạng xót xa, hoang mang, lo sợ của Kiều: không biết cuộc đời sẽ trôi nổi đến đâu, tương lai rồi sẽ thế nào hay lại tan tác, bị dập vùi như cánh hóa mỏng manh kia.
* Nỗi buồn của Kiều khi nhìn cảnh nội cỏ nhạt nhòa, mênh mông “rầu rầu”:
                                                        “Buồn trông nội cỏ rầu rầu
                                                  Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
-Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” héo úa với màu xanh nhạt nhòa trải dài từ mặt đất đến chân mây là hình ảnh của thiên nhiên héo úa, tàn phai.Thiên nhiên ấy gợi ở Kiều nỗi chán ngán, vô vọng, tái tê về cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh không biết kéo dài đến tận bao giờ. Thật là “cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên” ( Chế Lan Viên)
* Cao trào bi kịch của nội tâm Thúy Kiều:
                                                   “Buồn trông gió cuồn mặt duềnh”
                                                Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
- Một cơn gió cuốn trên “mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên “ầm ầm” như bủa vây quanh ghế Kiều ngồi. Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước bão táp cuộc đời, trước những tai ương đang rình rập, bủa vây. Câu thơ kết đoạn là sự hòa tấu sóng biển – sóng đời, không chỉ vang lên tiếng gõ cửa của định mệnh mà còn rung chuyển tiếng gầm gào của hiểm họa muốn hất tung người con gái đơn côi, yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời mong manh.
-> Có thể nói, thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là thiên nhiên được nhìn qua tâm trạng – được nhìn từ xa đến gấn, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, hãi hùng, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng
đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
-> Bốn câu thơ lục bát được liên kết bởi điệp ngữ “buồn trông” nghĩa là buồn mà nhìn xa, mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngửa. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ đứng sau, câu hỏi tu từ cùng các từ láy “thấp thoáng”,”xa xa”,”rầu rầu”,”ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn nhiều bề trong Kiều với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Tất cả tạo nên âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc đoạn thơ, cũng là điệp khúc của tâm trạng.
III. Kết bài:
- Tám câu thơ- bốn cặp lục bát cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tạo thành bức tranh tứ bình tâm trạng có cấu trúc cân đối hài hòa đã khiến cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du được nâng lên mẫu mực cổ điển.
- Đằng sau sự thành công ấy là một trái tim yêu thương vô hạn, là sự đồng cảm, xót thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh và ngầm tố cáo xã hội bất công đã chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con người.

Cảm nhận về tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều”.


Theo cô Hoàng Thị Vĩnh

I. Mở bài:
Nguyễn Du là thiên tài văn học, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. “Truyện Kiều” của ông được coi là kiệt tác ngàn đời trong kho tàng văn chương dân tộc. Một trong những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm chính là giá trị nhân đạo. Ở vị trí mở đầu của tác phẩm, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã  thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du.
II. Thân bài
1. Khái quát:
- Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du được thể hiện qua sự ngưỡng mộ vẻ đẹp của hai người con gái đầu lòng họ Vương; đặc biệt là sự trân trọng vẻ đẹp tinh thần, tài năng của Thúy Vân,Thúy Kiều. Tấm lòng nhân đạo ấy còn được thể hiện trong dự cảm về số phận nàng Kiều qua bức chân dung được khắc họa.
2. Ca ngợi vẻ đẹp ,tài năng của con người:
- Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.
- Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai, tâm hồn trong trắng như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn hảo cả hình thức lẫn tâm hồn. Hai chị em đều tuyệt đẹp với vẻ đẹp “Mười phân vẹn mười” song mỗi mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau.
+ Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân, tác giả viết:
                                            “Vân xem trang trọng khác vời
                                     Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
                                           "Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
                                   Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,”
Chỉ hai chữ “trang trọng” đã gợi tả ở Vân một vẻ đẹp cao sang, quí phái. Vẻ đẹp ấy được so sánh với cái đẹp chuẩn mực của thiên nhiên như “trăng”,”hoa”,”mây”,”tuyết”,”ngọc”. Dưới ngòi bút cả thi nhân, chân dung Thúy Vân hiện ra toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc đến nụ cười giọng nói: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm, lông mày sắc nét như mày ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, ắt hẳn Vân sẽ có cuộc đời bình yên, không sóng gió.
+ Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả đã khái quát:
                                              “Kiều càng sắc sảo mặn mà
                                            So bề tài sắc lại là phần hơn.”
Như vậy, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn. Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”,”mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
+ Vẫn là những hình tượng nghệ thuật ước lệ được nhà thơ sử dụng để gợi tả nhan sắc nàng Kiều:
                                           “Làn thu thủy, nét xuân sơn,
                                     Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
                                           Một hai nghiêng nước, nghiêng thành,
                                    Sắc đành đòi một tài đành họa hai”
Song thi nhân không thiên về cụ thể như tả Thúy Vân mà ở đây, ông chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”– vẽ hồn của chân dung. “Làn thu thủy nét xuân sơn” – những hình ảnh ẩn dụ gợi đôi mắt trong sáng, lóng lánh, thăm thẳm như làn nước mùa thu; đôi long mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của trí tuệ, của tâm hồn.Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hơn, nước phải nghiêng, thành phải đổ. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy,tả sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy. “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người.
+ Tạo hóa không chỉ ban cho nàng vẻ đẹp tuyệt vời mà còn phú cho nàng trí tuệ thông minh tuyệt đối:
                                          “Thông minh vốn sẵn tính trời
                                       Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
                                          Cung thương lầu bậcngũ âm
                                      Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
                                         Khúc nhà tay lựa nên chương.
                                      Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.”
Tài năng của Kiều đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, đủ cả cầm – kì – thi – họa. Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả “ làu bậc ngũ âm”. Nàng đã soạn riêng một khúc Bạc mệnh mà ai nghe cũng não lòng. Đây chính là biểu hiện của một con người có trái tim đa sầu, đa cảm. Tả sắc, tài của Thúy Kiều là Nguyễn Du muốn ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp: sắc – tài – tình đều đạt đến mức tuyệt vời.
- Thúy Vân, Thúy Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du không chỉ nhan sắc tuyệt vời mà còn đức hạnh khuôn phép. Dù đã đến tuổi cài trâm, búi tóc nhưng hai chị em vẫn:
                                         “Êm đềm trướng rủ màn che,
                                    Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
-> Ngợi cả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao giá trị phẩm giá con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh. Sự ngưỡng mộ, người ca người phụ nữ trong xã hội “trọng nam khinh nữ”chính là biểu hiện sâu sắc của cảm hứng nhân đạo.
3. Dự cảm về cuộc đời tài hoa:
- Dưới ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du, chân dung Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp “chim sa cá lặn” của nàng khiến cho tạo hóa ghen hờn, đố kị. Tài hoa, trí tuệ thiên bẩm và tâm hồn đa sầu, đa cảm khiến nàng khó tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã. Thi nhân dự báo số phận Thúy Kiều sẽ phải chịu nhiều éo le, đau khổ bởi “Lạ gì bỉ sắc tư phong/Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Nhất là cung bàn bạc mệnh đầy khổ đau, sầu não do Kiều soạn riêng cho mình như báo trước cuộc đời hồng nhan, bạc phận. Dự cảm về kiếp người tài hoa, bạc mệnh cũng là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc đối với con người, là biểu hiện của cảm hứng nhân văn mà Nguyễn Du dành cho nhân vật Thúy Kiều ngay từ những vần thơ mở đầu tác phẩm – đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
III. Kết bài:
- Nguyễn Du – nhà thơ thiên tài của dân tộc ta đã dành toàn bộ tâm huyết, sức lực tài năng để sáng tạo bức chân dung chị em Thúy Kiều. Với sự kết hợp tài tình giữa bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng sáng tạo nghệ thuật so sánh, nhân hóa và ngôn ngữ thơ tinh luyện, tả ít gợi nhiều, Tố Như đã vẽ nên bức chân dung toàn mĩ về “hai ả tố nga” bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học trung đại để biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình. Cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã góp phần đem đến giá trị tư tưởng đặc sắc và giá trị nhân bản của kiệt tác “Truyện Kiều”. Đọc đoạn trích,đọc tác phẩm chúng ta tự hào về Nguyễn Du, về một trái tim chan chứa yêu thương, đồng cảm với tâm tư số phận con người, một tài năng về thi ca rạng rỡ văn học nước nhà.


Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp trong bài thơ Đồng chí” của Chính Hữu. Theo cô Nguyễn Thị Kim Lan


                             Dàn ý chi tiết
1.Mở bài:          
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội hoạt động trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ ông hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh.
- Bài thơ “Đồng chí” được ông viết năm 1948,in trong tập “Đầu súng trăng treo”.
- Đến với bài thơ, người đọc cảm phục và yêu quí người lính cách mạng thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.Thân bài:        
- Đọc bài thơ, cảm nhận đầu tiên của chúng ta là hình ảnh người lính hiện lên rất chân thực như cuộc sống còn nhiều vất vả và lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê đất Việt:
                                              Quê hương anh nước mặn đồng chua
                                              Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
- Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân quê. Tác giả tuy không chỉ đích danh, bản quán nơi cư ngụ từng  người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miền Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du  khô cằn sỏi đá. Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ, khó nhọc của người dân quê   Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để   từ những người xa lạ, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau:
                                       Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Câu thơ  “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là câu thơ giàu ý nghĩa. Điệp từ  “bên” cùng nghệ thuật sóng đôi có tác dụng khẳng định sự gắn bó
khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc “súng bên sung”, cùng chung lí tưởng, suy nghĩ  “đầu sát bên đầu”. Dù gian khổ đến đâu, dù nguy hiểm, sóng gió  đến nhường nào, các anh vẫn trung thành với con đường của mình  đã chọn. Đọc câu thơ, ta không nhận ra “anh” và “tôi” nữa mà họ đã trở thành “những anh”, “những tôi” nhòa đi sau những khẩu  súng,những mái đầu.
-> Thì ra cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành cuộc “gặp gỡ”  của bao người yêu nước. Mới đây thôi, họ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Giờ đây họ lại sát cánh bên nhau thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chính  lí tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
- Ở nơi chiến trường đầy khói bom thuốc súng, người chiến sĩ phải chống chọi với cái rét:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
  Cái rét ở rừng già Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy:
                                      + Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
                                       Gió qua rừng đèo Khế gió sang.
                                      + Đêm mưa rình giặc tai thao thức
                                       Mùa lại mùa qua rét nhức xương.
                                                                                ( Tố Hữu – “Lên Tây Bắc”)
- Nhưng câu thơ của Chính Hữu nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Cái hay  của nhà thơ là đã biết đem “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi ấm mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ. Những người lính đến  với nhau nhẹ nhàng, bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, có cái riêng của một đôi bạn ý hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của   nhau:
                                                  Đồng chí!
- Câu thơ chỉ có hai tiếng và kết thúc bằng dấu chấm than tạo một nốt nhấn, vang lên như một sự phát hiện, lời khẳng định. Đồng thời  như một chiếc bản lề khép mở sự lí giải cội nguồn của tình đồng chí ở sáu câu thơ trước với những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí trong những câu thơ tiếp theo của bài thơ.
=> Nếu coi bài thơ như một cơ thể sống thì hai tiếng “Đồng chí” như một trái tim hồng nuôi sống cả bài thơ. Nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc.
=> Tám mươi năm nô lệ nay mới được gọi nhau là đồng chí sung sướng và kiêu hãnh biết bao! Từ nay tình cảm gì cũng phải nâng lên  thành tình đồng chí, phải đo bằng tình đồng chí. Tình cảm cao đẹp này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất, dồi dào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
=> Chính Hữu đã có lời nhận xét: “Những năm đầu cách mạng từ  “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực  hiện một lí tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng chí bấy giờ”.
- Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
- Từ bao đời nay, ai cũng biết rằng ruộng nương và nhà cửa là những tài sản quý giá nhất đối với người nông dân vì họ phải tốn biết bao mồ hôi nước mắt mới có được. Cho nên họ vô cùng gắn bó sâu nặng, gìn giữ, trân trọng với những thứ của cải ấy.Vậy mà họ   lại dễ dàng gạt bỏ lại sau lưng, lên đường theo tiếng gọi của quê hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người dân quê vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình họ, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng hi sinh cho dân tộc. Ai ngờ những người nông dân quê mùa, hiền lành như hạt lúa, củ khoai, cả đời chỉ   biết cầm cày gieo lên mầm xanh, nhân lên sự sống cho quê hương  đất nước lại dễ dàng từ bỏ xóm làng đến thế! Các anh đã biết đặt tình cảm chung lên tình cảm cá nhân, đặt tình yêu nước lên trên cảm gia đình. Hai tiếng “mặc kệ” không phải hiểu theo nghĩa phó  mặc mà trong ngôn ngữ giản dị của người lính là “Cứ chờ đó, cách  mạng thành công mọi chuyện sẽ làm lại sau”. Đó mới chính là ngôn  ngữ, là ý tưởng mà họ muốn thể hiện trong hành động “dứt áo” ra  đi của mình.
- Vì thế quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ:
                      Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
- Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca  dao xưa nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “Giếng nước gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn  của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Song hai hình ảnh này còn được nhân  hóa. Nói “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm  lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. “Giếng nước  gốc đá” cồn cào đến chừng nào! Đời sống tình cảm của họ với làng quê da diết vô cùng. Bao tình cảm sâu nặng như đều dồn tụ trong  tiếng “nhớ” giản dị ấy!
=> Song, góc nhớ thương đó không làm cho các anh mềm lòng, mất đi ý chí cứu nước mà nó thôi thúc, động viên người lính nông dân  bền gan vững chí, cầm chắc tay súng lập công. Bởi lẽ nước nhà sớm độc lập thì các anh mới sớm được trở về với quê hương, xóm  làng…
- Đọc bài thơ, chúng ta còn cảm phục người lính nông dân ở tinh thần vượt khó, vượt khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
- Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, chướng khí âm u nên hầu như người lính nào cũng bị mắc căn bệnh sốt rét ác tính. Căn bệnh quái ác này làm cho họ tóc rụng da xanh, gầy còm yếu ớt, thậm chí tử vong nữa. Ai đã từng nói: “Đánh trận tử vọng ít, sót rét tử vong nhiều”.
- Nhưng đó không phải là gian khổ duy nhất mà người lính phải trải qua. Họ còn phải chịu đựng cái lạnh giá, trong khi quân phục lại không đủ đầy: người lính thường xuyên phải mặc “áo rách”, “quần                      vá” và “chân không giày”. Vậy mà họ vẫn không một lời kêu ca, không một tiếng phàn nàn, một lời than thở…
=> Từ một dân tộc nô lệ với gậy tầm vong giáo mác, chúng ta vùng lên chọi lại xe tăng đại bác của kẻ thù. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn này, anh bộ đội là người trực tiếp chịu đựng biết bao gian khổ. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, đọc lại những vần thơ của Chính Hữu mấy ai mà không cầm được nước mắt, mấy ai không thán phục sức chịu đựng phi thường của các anh.
- Viết về hiện thực cuộc sống của người lính nông dân, Chính Hữu   không phải định kể khổ để làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ:
                                      Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “Thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự cảm thông, xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa.
+ Đó là cái nắm tay thân mật, thắm thiết, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền
ngọn lửa tình cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào,   không cần lời nói hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, hơi   ấm từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi
ấm lan tỏa cả hai người, làm hai người nở một nụ cười, dù là “buốt   giá”.
+ Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút  làm ăn” ( Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng,  con trâu…Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng cao đẹp đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, để họ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Ba câu kết khắc họa thật đẹp bức chân dung của người lính trong một đêm canh gác ở rừng:
                     Đêm nay rừng hoang sương muối
                     Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
                     Đầu súng trăng treo.
- Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt ( “rừng hoang”, “sương muối”) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng đẹp biết bao! Họ truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn Tổ quốc. Có thể nói chính hoàn cảnh khắc nghiệt   của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính.
- Hình ảnh người lính tỏa sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo:  “Đầu súng trăng treo”. Trăng như treo trên đầu súng gợi ra vẻ đẹp  hư ảo, gần mà xa, thực mà mộng, một không gian bát ngát bao la có cái gì cứ bông bênh khó tả. Họ đã vượt lên gian khổ, vượt lên thiếu thốn, hiểm nguy để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng, của thiên nhiên đất trời ban tặng. Ánh trăng lúc này như người bạn tri âm tri kỉ đối với người lính. Vầng trăng trên bầu trời như xuống thấp, soi sáng đôi bạn, muốn ngợi ca, soi rõ tình đồng đội thiêng liêng cao cả của họ. Chỉ một nét vẽ khéo léo, một sự tưởng tượng hết sức diệu kì, Chính Hữu đã xóa đi bao ám ảnh của rừng hoa sương muối, của cái chết, của trận đánh sắp bắt đầu, nâng hình ảnh người lính cao hơn, sáng hơn, và ngàn lần đẹp hơn.
=> Hóa ra cuộc đời người lính nông dân mộc mạc, chân chất kia, tâm hồn cũng rất lãng mạn bay bổng biết bao! Họ không chỉ biết siết cò súng mà còn biết làm thơ nữa! Tâm hồn chiến sĩ hòa quyện với tâm hồn thi si đã tạo nên nét đẹp độc đáo của người lính nông dân.
- Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng.  “Súng” là biểu tưởng cho sắt thép, lửa đạn chiến tranh, khiến cho nhân loại căm giận lên án. Còn “trăng” biểu tượng cho hòa bình, hạnh phúc – ước mơ ngàn đời con người muốn vươn tới.
=> Chính Hữu đã liên kết hai hình ảnh đối lập trong một câu thơ để diễn tả một ý tưởng sâu sắc: người chiến sĩ của chúng ta quyết tâm cầm chắc cây súng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. Để cho em thơ ngủ ngon, để cho nhân dân hạnh phúc, yên bình, để vầng trăng kia sáng mãi, các anh chỉ có cách duy nhất: cầm súng.  Với cây súng các anh đã trở thành linh hồn của đất nước, của không gian và thời gian. Với cây súng các anh đã thêu dệt nên những bản tình ca không thể nào quên trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc.
=> “Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất   viết về người chiến sĩ trong thời kì chống Pháp: gian khổ mà anh dũng, hiện thực mà thơ mộng. Chủ đề của bài thơ được nâng cao và lắng sâu trong lòng người đọc cũng là nhờ hình ảnh thơ tuyệt đẹp này. Và Chính Hữu cũng đã lấy hình ảnh thơ này làm tựa đề cho tập thơ gồm hai mươi tư bài của mình.
    3.Kết bài:    
 - Thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, bút pháp hiện thực,không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh.
- Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm tình cảm của người lính. Vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hòa quyện vào tình giai cấp.
- Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát, trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016

Phải chăng, sống là tỏa sáng? (Câu hỏi của đề thi Quốc gia năm 2014 môn Ngữ văn)


“Tôi muốn sống như một bông hướng dương”. Cô gái bé nhỏ viết nên những dòng tâm sự ấy khi đang từng ngày phải chiến đấu với căn bệnh ung thư, có những khi nỗi đau dường như vượt quá sức chịu đựng. Lấy tên một loài hoa hướng sáng mạnh mẽ để đặt nhan đề cho cuốn sách đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng của mình, cô gái ấy muốn nói với chúng ta về khao khát sống mãnh liệt, muốn nhắn nhủ với cả tôi và bạn rằng:”Phải chăng, sống là tỏa sáng?”.

Mỗi một sinh linh trong cõi sống này đều mang trong mình sự sống riêng của nó. Dù chỉ ngắn ngủi như một cánh bướm ngoài kia, kết thúc cuộc đời khi trái đất hoàn thành một vòng quay dài hai tư tiếng; hay là một con người với một kiếp sống đến trăm năm, tất cả đều mang theo cái sứ mệnh thiêng liêng là sống. Sống chứ không phải tồn tại. Nhất là ở loài người, có một bộ óc để suy nghĩ, một trái tim để yêu thương đùm bọc. Ta không thể chỉ đơn thuần duy trì cái hơi thở trong lồng ngực mà cứ bước đi nghênh ngang giữa cuộc đời. Sống là cần tạo cho mình một giá trị, sống là cần phải tỏa sáng!

Không giống như loài thú sống với bản năng, con người là tổng hòa của những mặt đối lập, những giá trị cao thấp, sang hèn khác nhau. Càng sống ta càng thấy mình chưa hoàn hảo nhưng ta chưa lúc nào lơi lỏng cái khát khao hoàn thiện mình.

Một đàn cá hồi phải vượt ngàn dặm thác để đến vùng nước ấm đẻ trứng. Những chú rùa biển vừa chào đời đã phải tự mình tìm đường về với biển khơi, nơi những hàm răng sắc nhọn của những loài sinh vật hung tợn đang trực chờ. Sự sống có được đâu phải là dễ dàng và hiển nhiên. Ngay cả con người cũng vậy. Để ta đến được với cuộc sống này, mẹ ta trải qua chín tháng mang nặng đẻ đau; trái tim của mẹ, của cha luôn đập những nhịp đập mong ngóng và nồng ấm nhất, hòa cùng với trái tim nhỏ bé của ta trong lồng ngực. Rồi mẹ cha trao cho ta cuộc sống, chăm sóc và nuôi dưỡng ta từng ngày, dạy ta những bài học cuộc đời đầu tiên.

Bởi thế sự sống không phải là để phí hoài vô nghĩa, không phải là để ta phung phí đi trong những ngày tháng nông nổi. Mỗi con người sống cần phải tạo nên một giá trị nào đó. “Tỏa sáng” là khi ta, chính ta nỗ lực và cố gắng đạt được một thành công nào đó, dâng hiến cho cuộc đời những giá trị vật chất và tinh thần, là khi ta sống như ngọn lửa, cháy bỏng với những mơ ước và khao khát, khi ta truyền đi hơi ấm của sự sống tỏa sáng sẽ làm cho con người trải nghiệm niềm hạnh phúc đích thực được sống ở đời.

Ánh sáng mà con người tạo ra là thứ ánh sáng đẹp nhất. Nó hiện hình trong cuộc sống hàng ngày với bao sắc màu khác biệt. Có những con người tạo nên kì tích lớn, hào quang xung quanh họ rực rỡ vô cùng; nhưng cũng có những đồng loại bé nhỏ, đóng góp cho cuộc đời âm thầm lặng lẽ. Thứ ánh sáng mà họ tạo ra dịu dàng mà lắng sâu. Giống như mặt trời rực rỡ đem lại sự sống và ánh sáng cho muôn triệu sinh linh toàn trái đất. Nhưng khi mặt trời lặn, ánh sáng lên, những đốm sáng của đom đóm lung linh huyền ảo. Nó làm cho ta không khỏi ngỡ ngàng, nó thôi thúc ta nâng niu sự sống. Điều quan trọng không phải là thứ ánh sáng nào ta sẽ tạo ra mà là hãy sống vì vầng ánh sáng trong tim mình. Chỉ cần ta biết cuộc sống không thể cứ chìm mãi trong tối tăm và sự vô nghĩa lí, ta sẽ khao khát tỏa sáng mà thôi.

Bạn có thấy không, những cuộc đời rạng ngời trong tăm tối? Khi mà bóng tối cảu cái chết đang đến gần, người ta càng khát khao sự sống hơn. Cô gái Diệu Huyền, tác giả cuốn tự truyện Như hoa hướng dương không hề buông xuôi trước lưỡi hái của thần chết. Cô đã tiếp tục cuộc sống của mình, lấy được tấm bằng tốt nghiệp của một trường đại học. Và ngày ngày vẫn luôn có bao người thân, gia đình và bạn bè sát cánh bên cô. Không lúc nào khao khát sống và cống hiến cho ước mơ vơi đi trong lòng cô gái trẻ. Phải chăng khi mà sự sống tưởng như sắp tuột khỏi tay thì họ, những con người phi thường mà lặng lẽ, lại biến nó thành những viên ngọc quý lấp lánh trong đời?

Khi người ta lâm vào nghịch cảnh, đó lại là cơ hội để tỏa sáng. Quán quân Vua đầu bếp của nước Mĩ- Crít- ti-na Hà giành được chiếc cúp khi mà đôi mắt của cô đã mất đi ánh sáng bởi một căn bệnh từ mười năm trước. Nhưng nhìn vào trong đôi mắt của cô, người ta chỉ thấy sáng lên một niềm đam mê với ẩm thực, một tình yêu mãnh liệt với sự sống. Cô đã không gục ngã trên con đường đến với vinh quang.”Tôi không muốn mình bị bỏ lại, tôi muốn làm điều gì có ích cho những người đã hi sinh mọi thứ để ở bên tôi khi tôi đau khổ nhất”, lời tâm sự ấy đủ để cho ta thấy ánh sáng ấm áp từ trái tim của Crít-ti-na.

Vậy đấy, khi trước mặt chúng ta bỗng hiện ra những chông gai thử thách, một bức tường khổng lồ ngỡ không thể vượt qua, thì đó chính là lúc ta cần phải kiên trì và nỗ lực hơn nữa. Bạn có tin vào điều kì diệu trong cuộc sống này?

Những con người đã cháy hết mình cho khát khao của họ, và họ đã có được thành công. Nó không phải chỉ là những thành quả được mọi người công nhận mà còn là tấm huy chương danh giá khắc ghi những nỗ lực vượt lên chính mình. Họ đã có thể buông xuôi, có khi đã lùi bước nhưng họ đã lựa chọn tiến lên, dù có phải chịu đựng những đớn đau và nhỏ những giọt mồ hôi cùng nước mắt. Vinh quang ấy mới rạng rỡ và hạnh phúc làm sao!

Từ ngữ nào đủ để diễn tả niềm vui của Nô-vắc Jô-kô-víc khi anh giành chức vô địch Wim-lơn-đơn và bước lên ngôi vị số một thế giới vào năm 2011? Có lẽ giấc mơ từ thuở thiếu thời đã thành sự thực ấy là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực không mệt mỏi của anh. Nhưng khi trả lời phỏng vấn của một tờ báo, Nô-vắc đã tâm sự rằng: “Khi nhìn vào chiếc cúp trên tay, tôi thấy hình bóng của những huấn luyện viên của mình. Họ đã giúp tôi có được ngày hôm nay. Cả gia đình tôi, những người luôn ở bên tôi và biết bao khán giả đã ủng hộ tôi cho đến tận lúc này. Vinh quang này là dành cho họ”. Và ta chợt nhận ra, phía sau hào quang của chiếc cúp kia là bao thứ ánh sáng bình thường giản dị. Có những người luôn đứng sau cánh gà để cổ vũ động viên. Những ngọn đèn rực rỡ sẽ không bao giờ chiếu sáng đến họ nhưng tự thân họ đã tỏa thứ ánh sáng kì diệu. Mỗi chúng ta đều có cho mình một người thầy, nhiều người thầy, những người đưa đò tận tụy. Họ đã mang cả tâm huyết, cả trái tim để góp cho ta thứ ánh sáng rực rỡ đến từ tri thức, còn mình thì lấy về mái đầu bạc và những lo toan. Lẽ nào ta lãng quên họ?

Nếu ta chỉ ngồi đó và trông chờ ánh sáng tới, ta cũng không hơn gì một vật phản quang. Ánh sáng nào sẽ đến với Mô-za khi ông mất đi thính giác? Chẳng có luồng sáng thần tiên nào cả, chỉ có bàn tay ông tự tìm tới những phím đàn, soạn nên những khúc giao hưởng đi cùng năm tháng. Mỗi chúng ta hãy tự thắp cho mình một ngọn đèn soi tỏ những ước mơ còn ấp ủ. Hãy biến mình thành ngọn lửa rực cháy của đam mê.

Không có cuộc đời nào trên hành tinh là vô nghĩa. “Tất cả chúng ta đều là thiên tài” – Anh-xtanh đã từng nói vậy. Chỉ là ta có thể đánh thức kẻ thiên tài ấy trong tâm hồn mình hay không. Quả là sống cần tỏa sáng, để khẳng định mạnh mẽ sự tồn tại của bản thân. Nhưng hãy nhớ, đừng chạy theo những gì lấp lánh, đừng bán tâm hồn mình cho tiền tài, danh vọng mà trà đạp lên đồng loại. Ánh sáng thực phát ra từ tâm, từ cái thiện ẩn sâu trong lòng người.

“Em sẽ lấy anh chứ?” – Đó là lời cầu hôn của Ních dành cho bạn gái của mình, khi cô chỉ còn chút thời gian ít ỏi ở nhân thế. Năm ngày sau, thần chết đã cướp cô đi. Nhưng trên môi cô dâu ấy vẫn nở nụ cười thật tươi bởi ánh sáng của tình yêu mà người chông đã trao đến trái tim cô, ánh sáng ấy đã đẩy lùi bóng tối. sống, phải chăng không chỉ là tỏa sáng cho riêng mình?

Trong rừng có nhiều lối đi Và tôi chọn lối đi không có dấu chân người

Khi bước vào tầm tuổi đôi mươi, tôi nghĩ trong mỗi người, dù ít hay nhiều cũng đều có cái gọi là sự trưởng thành. Sở dĩ nói như vậy bởi đó là khi chúng ta bắt đầu phải suy nghĩ, phải lựa chọn một hướng đi cho cuộc đời mình. Nối gót những bậc tiền bối trên con đường họ đã mở ra hay tự chọn cho mình một lối đi mới? Ta cũng phải suy nghĩ nhiều lắm để trả lời câu hỏi ấy.
Còn với nhà thơ người Mỹ Robert Frost thì:
Trong rừng có nhiều lối đi
Và tôi chọn lối đi không có dấu chân người

“Lối đi” là con đường, cách thức dẫn ta đến cái đích, cái kết quả mà mình mong muốn. Và thực tế có rất nhiều lối đi! Lối mòn, ngõ cụt, đường quanh co, có con đường dài, còn có cả đường tắt…. Cuộc đời thực cũng có rất nhiều con đường tựa như “một khu rừng có nhiều lối đi”, ngã rẽ, tựa như một bó những sợi dây định mệnh ta cầm trên tay mà không biết sợi nào là dành cho mình. Cuộc đời cũng như một cái mạng nhện khiến ta dễ đi lạc để rồi “mắc bẫy”nếu thiếu sự chủ động và tỉnh táo. “Tôi chọn” là sự chủ động, tích cực trong việc lựa chọn hướng đi cho chính mình. Và ở đây, nhà thơ người Mỹ chọn một “lối đi không có dấu chân người”. Đó là con đường mà chưa ai từng men theo, là một con đường mới, cách thức mới, là kết quả của sự sáng tạo, của những nỗ lực tự khẳng định chính mình. Có thể thấy, Robert Frost có sự chiêm nghiệm sâu sa về lẽ ở đời của riêng ông, rằng những con đường đi tới thành công, tới một cuộc sống hạnh phúc cũng giống như sáu tỉ cánh cửa dẫn tới cõi Niết Bàn, nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra cánh cửa của riêng mình với một sự chủ động tích cực, để tạo ra những giá trị thực sự cho cuộc sống.
Có lẽ giờ bạn đang tự hỏi tại sao việc chủ động lựa chọn một lối đi riêng lại cần thiết đến vậy? Có nhất thiết ta cứ phải đứng ra ngoài đám đông thay vì hòa lẫn nó? Vậy thì đầu tiên, hãy nhìn vào chính con người bạn.. Mỗi người chúng ta có một khả năng nhận thức, suy nghĩ, quan niệm và cách nhìn khác nhau về giá trị sống và giá trị bản thân. Bạn khác tôi, chúng ta khác nhau và cũng khác rất nhiều người.
Biết đến bao giờ, khi nào ta mới có thể tìm giữa bảy tỉ dân số thế giới kia một con ngườicùng chí hướng, cùng chung bản chất như ta để cùng đi một con đường, rồi lại san sẻ nhau cùng một số phận. Có thể một lúc nào đó, ta sẽ tìm được nhưng chẳng nhẽ ta lại cứ phải đợi chờ như vậy sao? Hãy dám tự bước đi.
Cuộc sống có nhiều lối đi, thật phong phú biết bao và ở mỗi lối đi lại chứa đựng cả những cơ hội và thử thách. Nếu bạn chọn học theo ngành Y hay Kinh doanh, bạn khởi động chuyến đi bằng việc xin đi du học nước ngoài, thì có thể bạn sẽ có cơ hội để học tập ở môi trường thực tế hơn, năng động hơn nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn như sốc văn hóa, phải tự kiểm soát cuộc sống chính mình, hay tự quản lí thời gian làm sao cho “ngon lành” … Không chỉ vậy, bạn cần nhận thức một thực tế là cuộc sống luôn vận động, phát triển theo quy luật tiến hóa của loài người và cộng đồng. Không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Bởi vậy, nếu ta lặp lại một lối đi người khác đã chọn, có thể ta sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời, và không tìm được tới cái đích thành công. Đời cũng như biển vậy, có lúc nào biển ngừng động đâu, và có khi nào con tàu lại không khỏi rung lắc trên sóng cả.
Tuổi mười tám, ta cứ loay hoay như một con rối ở giữa những ngã rẽ cuộc đời vậy. Làm thế nào để tìm được một lối đi cho riêng bản thân mình? Dù làm điều gì đi chăng nữa, trước hết ta cần nhận thức về thực tế đời sống và chính bản thân mình. Hiểu đời và hiểu mình là hai lẽ tất yếu để tạo nên thành công.
Khi bạn có sự hiểu biết về điều kiện, môi trường xung quanh, bạn sẽ nắm bắt được những cơ hội và may mắn. Khi bạn có sự hiểu mình, bạn biết mình cần làm gì, ứng dụng kiến thức gì để đạt được điều bạn muốn. Bên cạnh đó, bạn cần lắng nghe bản thân mình, hãy tìm xem mình đâu là sở trường, là điểm mạnh của mình. Tận dụng thế mạnh cũng có nghĩa là bạn đang tận dụng tối đa năng lực của mình để hoàn thành công việc một cách tốt đẹp nhất. Cũng như chỉ có những hạt mầm tốt mới có thể gieo trồng nên những cái cây đầy sức sống nhất.
Bạn biết không, trong thế giới của chúng ta có những “ông trùm” – họ rất thú vị và khôn khéo từ khi còn nhỏ. Như ông trùm xứ Omaha, người giàu thứ ba thế giới Warren Buffett, từ khi chỉ mới là một đứa trẻ mười một tuổi, thường lân la đến nơi cha làm việc đã tự mình tìm hiểu về những con số khô khan trên bản niêm yết giá ở Harris Upham. Ông còn có một khả năng tính toán rất nhanh và chính xác và từ khi lên tám tuổi đã đọc các cuốn sách về thị trường chứng khoán. Những tư duy đầu đời đó đã khơi nguồn cho ý tưởng mua cổ phiếu và đầu tư, những bước đi đầu tiên trên chặng đường làm giàu. Ta tự hỏi nếu như những con số kia không lọt vào óc của cậu bé Warren Buffett, nếu như cậu bé đó không biết tận dụng những đồng tiền nhỏ lẻ của mình để mua cổ phiếu, nếu như cậu bé không biết tận dụng khả năng tính toán chính xác của mình vào các chiến lược đầu tư kinh doanh, thì hẳn ta đã không biết đến một nhà đầu tư tài ba bậc nhất Warren Buffett của ngày hôm nay. Còn ông trùm máy tính Bill Gates thì sau khi đã nạp đầy bộ nhớ của mình những cuốn tạp chí kinh doanh khi mới mười lăm tuổi, đã cùng một người bạn thân đi kinh doanh huy hiệu trong cuộc vận động tranh cử tổng thống. Cậu bé này đã bỏ tiền ra mua năm nghìn huy hiệu với giá năm xu một cái. Sau đó, khi những chiếc huy hiệu này được những người sưu tầm săn lùng, cậu bán lại với giá hai mươi lăm đô một cái. Câu chuyện này không liên quan đến máy tính, nhưng lại là một bài học cho tất cả những người theo đuổi giấc mơ kinh doanh.
Không phải ai đi rồi cũng sẽ đến đích theo ý mình. Bởi một con đường mới đem đến cho ta cả cơ hội và cả những khó khăn thử thách. Để vượt qua những trở ngại đó, ta không chỉ dựa trên năng lực bản thân mà còn cần tự củng cố cho mình về mặt tinh thần. Giả dụ như bạn hình thành một ý tưởng lớn, một ý tưởng mới, một ý tưởng có khả năng thay đổi chính bạn một cách tích cực nhất.
Có thể đồng nghiệp yêu quý bạn, nói rằng họ ủng hộ bạn, nhưng thực chất không phải ai cũng mong chờ sự thay đổi của bạn đâu. Có rất nhiều người mà sâu trong thâm tâm họ muốn mọi thứ cứ nguyên vẹn, để họ không phải làm quen lại với con người mới sau này của bạn, và thay đổi động lực của họ với bạn. Đó là bởi ý tưởng mới, con đường mới hoàn toàn có thể thay đổi cán cân quyền lực.
Lúc này chỉ còn lại mình bạn bơ vơ ở chính nơi mình làm việc, và đó cũng là lúc bạn cần tỉnh táo và củng cố niềm tin của mình hơn bao giờ hết. Bạn cần có một thái độ sống can đảm, dám đương đầu với dư luận, chịu trách nhiệm về công việc của mình. Ngay trong thực tế, bạn cũng có thể tìm thấy những tấm gương nổi bật. Đó là Khánh Thy – kiện tướng dancesport, người đã mang bộ môn khiêu vũ thể thao của thế giới đến với Việt Nam. Có thể nói đây là một điều rất khó khăn bởi đã có thời điểm, người dân ta có cái nhìn không tích cực lắm về bộ môn nghệ thuật này. Đó còn là LK, Mr.T, … những cái tên còn rất trẻ nhưng đã xây dựng và phát triển nền rap Việt, một hình thức nghệ thuật rất mới ở Việt Nam và thậm chí, những người lớn tuổi còn cho rằng nó rất điên loạn, trở nên phổ biến và được nhiều bạn trẻ đón nhận và yêu thích. Chọn một lối đi cho riêng mình, đôi khi cũng là một cách thử bản lĩnh của chính mình.
Bên cạnh đó, ta cần có sự nhạy bén với những cơ hội. Hãy tự biến mình thành chiếc ra – đa bén nhạy để có thể bắt “sóng” cơ hội ở mọi thời điểm. Và hơn hết là khả năng hành động, giải quyết yêu cầu của công việc. Một người bị câm thì không thể trở thành một nhà diễn thuyết nổi tiếng được. Thay vì cứ mông lung giữa những suy nghĩ không rõ ràng về con đường riêng mà ta chọn, tôi nghĩ chúng ta nên cầm bút và viết ra những gì ta có thể làm, những gì ta tự tin mình hoàn thành tốt. Như tôi đã nói ở trên, bạn cần phải nhìn ra điểm mạnh của mình, và đặc biệt là hãy sử dụng nó như những chiếc chìa khóa mở cánh cửa dẫn tới thành công. Tuy vậy, ta cũng cần nhận thức một điều rằng không phải chỉ có tạo ra một con đường riêng, ta mới có thể thành công. Trong cuộc sống xung quanh ta vẫn có rất nhiều những người, dù không có một định hướng mới mẻ, khác biệt, họ vẫn tạo nên dấu ấn của riêng mình. Dù bạn đi trên con đường đã từng có dấu chân người, thì bằng trí óc, tâm hồn mình, bạn vẫn tạo nên hương sắc riêng cho những tạo vật trên đường.
Có thể nói hai câu thơ của Robert Frost là một nguồn độc lực thôi thúc con người, đặc biệt là những người trẻ tuổi trẻ lòng đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời có nhiều cơ hội cũng như rủi ro. Và cũng chính nó đã tạo nên một nguồn cảm hứng sáng tạo để con người tìm ra một con đường mới chủ động hơn. Không chỉ vậy, tác giá của hai câu nói này là một nhà thơ – người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, một lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo dồi dào. Bởi vậy, tiếng thơ kia còn là một yêu cầu nghiêm khắc người nghệ sĩ cất lên để nhắc nhở bản thân mình cũng như những ai cầm bút sáng tác, rằng nghệ thuật phải đi cùng với sự sáng tạo. Sáng tạo làm nên giá trị và ý nghĩa cho cả tác phẩm và người viết, như Suối nguồn, cuốn tiều thuyết hay nhất thế kỷ XX của Ayn Rand, hay một Harry Potter kinh điển của bà góa phụ J. K. Rowling của thế kỷ XXI …

Tuổi hai mươi bạn thấy mình như một con thiêu thân vậy, luôn khát khao hướng về ánh sáng bất chấp sức nóng của lửa đèn. Đã đến lúc những người trẻ tuổi trẻ lòng như tôi, như bạn cần tỉnh táo tìm cho mình một lý tưởng, một lối đi. Lối đi đó có thể riêng, có thể chung nhưng điều quan trọng là hãy để tâm hồn và trí óc bạn lan tỏa tinh hoa cho nhân loại. Và dù bạn ở đâu, làm gì, cuộc sống có ra sao, bạn cũng cần luôn thôi thúc mình sáng tạo và bản lĩnh đi tới cùng những ý tưởng, định hướng của mình. Hãy trở nên khác biệt một cách tích cực, cho dù xung quanh ta, có những con người không thỏa mãn với điều đó của ta. Cái giá của việc làm cừu là nhàm chán, cái giá của việc làm sói là cô đơn. Vậy bạn chọn làm cừu hay làm sói?