Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như hoạ sĩ dùng đường nét và sắc màu, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng hình ảnh và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình-đặc biệt là diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu cái men say nồng của sắc xuân hương xuân. Hãy lật từng trang sách đến với bốn câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hãy hoà nhịp tâm hồn vào đất trời xứ Huế với sáu câu thơ đầu trong Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, bạn sẽ thấy non sông gấm vóc, quê hương Việt Nam đẹp biết bao!
                   Ngày xuân con én đưa thoi
           Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
                   Cỏ non xanh tận chân trời
           Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Và:
           Mọc giữa dòng sông xanh
           Một bông hoa tím biếc
           Ơi! Con chim chiền chiện
           Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
             Nguyễn Du và Thanh Hải - Họ tuy không cùng một thế hệ thơ, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng trong tâm hồn của những người nghệ sĩ ấy luôn tràn đầy một tình yêu thiên nhiên đến lạ kì! Ngòi bút cuả các thi sĩ đã thăng hoa, đã đồng điệu với vạn vật tự nhiên, thổi vào đó một tình xuân, ý xuân ngọt ngào say đắm. Sao không yêu chứ, sao không ngây ngất chứ! Vẻ đẹp của xuân quê hương, xuân của lòng người rộn rã lắm, náo nức lắm.
              Mùa xuân ấy là màu xanh bát ngát của sự sống, của những chồi non lộc biếc đang cựa quậy trong từng vần thơ. Hai nguồn thi cảm ở hai thời đại cùng nhả những sợi tơ lòng dệt nên bức hoạ tuyệt đẹp của mùa xuân có hình khối màu sắc, có xa, có gần, có tĩnh có động, có nhịp đập trái tim thổn thức, có âm thanh rộn rã, có tình người đắm say. Chỉ một vài nét chấm phá mà sao hai bức tranh xuân ấy lại đẹp đến vậy.
Nguyễn Du tài hoa, uyên bác trong ngôn từ khi gợi tả mùa xuân. Nhà thơ đã kế thừa và sáng tạo từ một câu thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo thiên liên bích/Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu như nhà thơ cổ Trung Quốc đã phác hoạ bức tranh xuân có màu xanh của cỏ non, có vẻ đẹp của mấy bông hoa lê trên cành thì Nguyễn Du lại thể hiện được cả sức xuân căng tràn, dào dạt của cỏ...
                   Ngày xuân con én đưa thoi
           Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
                   Cỏ non xanh tận chân trời
           Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
         Cỏ càng xanh, hoa càng trắng, chỉ mấy chữ “non”, “xanh”, “trắng” mà như chứa cả hương thơm, cả sắc màu, cả tình người gửi vào đó.Bốn câu thơ tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nguyễn Du báo tín hiệu mùa xuân bằng “én đưa thoi”
                                    “Ngày xuân con én đưa thoi
                            Thều quang chín chục đã ngoài sáu mươi ”.
Nguyễn Du đã dùng không gian để vẽ thời gian.Thời gian - thấm thoắt đã trôi qua hai tháng, nhanh như thoi đưa, chỉ đọng lại ánh sáng rực rỡ, cuối cùng của mùa xuân trong tiết thanh minh. Hai chữ “đưa thoi ”rất gợi hình gợi  cảm .Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua, bay lại chao lượn , vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trôi nhanh.Nhà thơ mượn cách nói của dân gian, “thời gian thấm thoắt thoi đưa” để miêu tả. Cảnh ngày xuân hiện nên trong thơ ông vừa bình dị vừa sống động. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thều quang ” của mùa xuân khi đã ngoài sáu mươi. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang những nét rất riêng. Hai chữ “Thều quang ”để thể hiện mùa xuân đã sang tháng ba .Hai chữ ấy đã gợi nên màu hồng của ánh xuân , cái đầm ấm của khí xuân, cái mêng mông bao la của đất trời .Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân thật trong sáng. Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới tận chân trời .
                            “ Cỏ non xanh tận chân trời
                            Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”.
             Nguyễn Du dùng những thi liệu là “cỏ non”, cánh “én đưa thoi”, “thiều quang”, “hoa lê trắng” để vẽ lên bức tranh xuân cao rộng, thoáng đãng đầy thi vị.Ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa.Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trắng lên trước cụm từ “vài bông hoa”để cùng với tính từ “ xanh ”ở câu trên .Câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành bức hoạ với gam màu dịu dàng.Trên nền xanh của cỏ biếc, điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng đã tạo thành một bức gấm thêu.Nghệ thuật phối hợp sắc màu của Nguyễn Du thật tài tình. Cái màu xanh –trắng hài hoà ấy gợi lên cảm giác cảnh mênh mông mà không quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết .
          Nguyễn Du  đã vẽ một bức tranh ngày xuân bằng ngôn từ .Bức tranh ấy đẹp, bình dị mà thơ mộng.Đó là bức tranh có màu sắc hài hoà, dịu dàng, tươi tắn. Vẽ được bức trang xuân hoa lê như vậy đã thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du.
Còn Thanh Hải lại đằm thắm, ngọt ngào với những vần thơ đầy ắp hình ảnh.
Mọc giữa dòng sông xanh
           Một bông hoa tím biếc
           Ơi! Con chim chiền chiện
           Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Nhà thơ đã phác họa một bức tranh với âm thanh, màu sắc, với sức xuân hài hòa, sống động. Thanh Hải với cách đảo động từ “mọc” đã phác hoạ một hình ảnh rất ấn tượng về sự sống mãnh liệt của loài hoa lục bình xứ Huế đang vươn lên giữa phông nền của dòng sông xanh căng tràn sức sống. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ một bông hoa thôi, một bông hoa tím biếc cũng làm nên sức xuân, cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu. Thanh Hải đã dùng những hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, tiếng “chim chiền chiện hót vang trời “để làm nên cái độc đáo mà chỉ ở quê hương xứ Huế mộng mơ mới có. Bức tranh xuân có gam màu thật hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn: màu xanh lam của nước sông Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím thật giản dị, thủy chung mà cũng thật mộng mơ, quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của xứ Huế, một màu rất Huế. Bỗng đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời.Với những thán từ “gọi”, “ơi”, “chi” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu và đậm chất xứ Huế mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu.Tiếng gọi của Thanh Hải “ơi”, “hót chi” nghe sao mà tha thiết, ngọt ngào như con người Huế vốn rất đẹp, rất chân thành đó thôi.
Khung cảnh mùa xuân  xứ Huế có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng. Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu và âm thanh đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống. Mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời làm lòng người say sưa, xốn xang, rộn ràng
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Giọt long lanh là tên gọi chung của tác giả dành cho giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt, lấp lóa, chói ngời. Với bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác. “Hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống, của đất trời, của chim, cũng là sự đồng cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc đời.Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt, niềm tin yêu cuộc sống và khát khao dâng hiến đến hơi thở của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ  màu sắc, âm thanh của sự hồi sinh.
            Nếu bức tranh xuân của Nguyễn Du non xanh như tâm hồn của các cô thiếu nữ Thuý Kiều, Thuý Vân trong buổi du xuân thì bức tranh xuân của Thanh Hải tươi sáng, ân tình, chứa chan cảm xúc, thấm thía lòng người. Tâm hồn họ đều rất thăng hoa, rất thiết tha, nhưng mỗi người lại có một bút pháp nghệ thuật riêng để ghi đậm cái tôi cá nhân trong lòng độc giả. Nếu như Nguyễn Du đã vận dụng khéo léo thể thơ lục bát cuả dân tộc thì Thanh Hải cũng rất mượt mà với thể thơ ngũ ngôn ngân nga như điệu nhạc xứ Huế.
             Nguyễn Du với mười lăm năm lưu lạc còn Thanh Hải đang phải giáp ranh với cái chết nhưng ở họ vẫn nồng cháy tình yêu thiên nhiên, đất trời, Tình cảm ấy đã hoà chung dòng chảy với các tác phẩm khác viết về mùa xuân.

             Đã nhiều năm trôi qua, nhưng khi đọc những dòng thơ trên, lòng người đọc vẫn không khỏi xúc động, rạo rực, mê say. Có lẽ Nguyễn Du cũng như Thanh Hải sẽ còn sống mãi trong trái tim người đọc bởi những vần thơ như thế, bởi tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên, đất trời và con người tha thiết. Bởi chính ngòi bút của họ đã thăng hoa thành những nét vẽ khắc sâu trong hồn ta một mùa xuân bất diệt, vĩnh hằng và truyền vào lòng ta khát vọng được cống hiến, được làm Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời...