“Thu là thơ của đất trời. Thơ là thu của
lòng người”. Đúng vậy, mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm – đã trở thành nguồn
cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như văn học trung đại có Nguyễn Khuyến với
ba bài thơ thu nổi tiếng, văn học cận đại có Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”,
Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” thì văn học hiện đại cũng có Hữu Thỉnh với bài
“Sang thu”.
Bằng
cảm nhận tinh tế và những hình ảnh giàu sức biểu cảm, bài thơ “Sang thu” đã thể hiện những biến
chuyển của đất trời và tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ “Sang
thu”, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước mùa thu trong hòa bình.
Thể thơ năm chữ đã giúp miêu tả tinh tế và sâu sắc những biến chuyển của đất
trời vào buổi giao mùa từ hạ sang thu.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Khổ
thơ, và cả bài thơ, được mở ra bằng một chữ “bỗng”, gợi nên cảm giác bất ngờ,
đột ngột, đầy ngỡ ngàng của tác giả khi nhận thấy những dấu hiệu báo mùa thu
tới. Thơ ca tự cổ chí kim đã viết rất nhiều về những dấu hiệu ấy, từ sắc vàng
hoa cúc cho tới lá khô rải thảm, ngô đồng nhất diệp lạc… Hữu Thỉnh không đi
theo lối mòn ấy, mùa thu trong ông bắt đầu với “hương ổi” – mùi hương vô cùng
giản dị và gần gũi của vùng nông thôn miền Bắc quê ông. Nếu như cậu bé Trần
Đăng Khoa ngày nào đã nhận ra mùa thu tới chỉ bởi hình ảnh “Sáng ra vại nước
rụng đầy hoa cau” thì bây giờ Hữu Thỉnh nhờ đến hương ổi để nhận ra điều đó.
Phải là một người yêu quê hương tha thiết mới có thể viết được như thế ! Từ
“phả” ở đây được dùng rất chính xác, động từ ấy đã gợi lên hương ổi thơm đậm
đà, hòa quyện và sánh lại trong gió. Những cơn gió se hơi khô, hơi lạnh đặc
trưng của mùa thu ấy lại càng tinh lọc, cô đặc thêm mùi hương. Chúng đem hương
ổi, hương thu tới từng ngõ ngách, đánh thức tâm hồn thi sĩ. Từ “se” là đang tả
gió, hay là tả cái co mình hơi run của vạn vật khi gió lướt qua ? Từ gió, tác
giả nhận ra sương.
"Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Sương
giăng mắc khắp không gian như một tấm màn hơi nước mỏng. Từ láy “chùng chình”
như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước
chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng
chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến ủa nhà thơ khi thu tới.
Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ,
rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian
thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu
đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua
ba giác quan khứu giác (“hương ổi”), xúc giác (“gió se”), cả thị giác (“sương
chùng chình”), tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên
thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua
hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng
những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm
xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về.
Sau
cảm giác ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới bắt đầu xem xem “thu đã về” có là thật hay
không.
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Không
gian của ý thơ được mở rộng. Bức tranh thu không còn chỉ gói gọn trong không
gian nhỏ hẹp của “ngõ” với những nét vô hình như “hương”, “gió” mà trở nên rộng
hơn, cao hơn với những thứ hữu hình, cụ thể như “sông”, “chim”, “mây”. Vế đối ở
hai câu đầu rất chặt chẽ, rất thực nhưng vẫn rất đẹp, rất thơ. Dòng sông không
còn chảy cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Từ láy “dềnh
dàng” đã tả được hết êm ả, lững lờ như thể sông đang lắng lại, đang trầm tư,
suy ngẫm. Nhịp chảy chậm rãi, thư thả ấy kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như
gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Phải chăng dòng sông ấy
cũng chính là dòng sông “Dùng dằng hoa quan họ / Nở tím bên sông Thương” trong
bài “Chiều sông Thương” cùng tác giả ? Tương phản với sông là sự vội vã của
chim. Khi khí trời chuyển lạnh cũng là lúc các loài chim chuẩn bị cho chuyến di
cư về phương Nam tránh rét trong mùa đông. Chúng “vội vã” vì mùa thu tới báo
hiệu một mùa đông lạnh giá cũng sắp đến gần. Và mới chỉ “bắt đầu vội vã” thôi,
chứ chưa phải là đang vội vã, tức là mới chỉ là “sang thu” thôi chưa hẳn là đã
thu.
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Vì
chưa hẳn vào thu nên mới có một “đám mây mùa hạ” duyên dáng “vắt nửa mình sang
thu”. Đám mây ấy cũng có nét gì đó giống “Đám mây trên Việt Yên / Rủ bóng về Bố
Hạ” trong “Chiều sông Thương” nhưng ở “Sang thu” vẫn đẹp hơn, thơ hơn vì nó là
đám mây chuyển mùa. Bầu trời lúc ấy như một bức tranh tuyệt đẹp về màu sắc,
trải từ sắc hạ sang sắc thu. Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để
gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây
lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám
mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ
đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được,
mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được
những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo
của mình.
Nếu
như cái hay của khổ đầu tiên là ở những từ ngữ gợi nên nhiều ẩn ý, cái đẹp của
khổ thứ hai là ở những hình ảnh thơ đẹp và tinh tế thì khổ ba nổi bật lên nhờ ý
nghĩa triết lí trong đó. Mùa thu không còn được cảm nhận trực tiếp nữa mà qua
kinh nghiệm, bằng sự suy ngẫm của nhà thơ.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Vẫn
có “nắng”, có “mưa”, có “sấm” như mùa hạ, nhưng tất cả đều đã đi vào chừng mực,
ổn định, tạo cảm giác lắng đọng. Nắng tuy “vẫn còn” nhưng không còn gay gắt, oi
ả và chói chang nữa mà đã dịu đi. Những cơn mưa rào xối xả cũng vơi đi, nhẹ bớt
dần. Dường như khí thu khiến cho vạn vật đều muốn nghỉ ngơi. Ngay cả sấm chớp,
bão dông cũng không còn đột ngột, bất chợt nữa. Nhưng Hữu Thỉnh đâu chỉ viết
một bài thơ tả cảnh “sang thu” bình thường, trong đó là một điều sâu xa hơn
thế. Nghệ thuật ẩn dụ trong hai câu thơ cuối đã gợi ra tính chất triết lí của
bài thơ. “Sấm” không chỉ là dông bão, mà còn là những khó khăn, thách thức của
cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” kia cũng chính là sự từng trải, chín chắn
của con người sau khi trải qua những giao lao ấy. Bão táp, dông tố của cuộc
sống sẽ cho ta thêm kinh nghiệm, tôi luyện ý chí, giữ cho ta sự điềm tĩnh để
kiên cường đối mặt với những khó khăn sắp tới. Qua đó, con người sẽ trưởng
thành hơn, sâu sắc và thâm trầm hơn, vững vàng hơn trước những tác động của
ngoại cảnh. Điều đó đã giải thích vì sao khi nhận thấy mùa thu, nhà thơ không
reo lên “Thu đã về !” mà chỉ cảm nhận rồi mơ hồ tự hỏi “Hình như thu đã về”.
“Đứng tuổi” cũng là lúc đã qua thời thanh niên sôi nổi bồng bột để chợt nhận ra
rằng sao thời gian trôi qua thật nhanh, bỗng chốc mà đã nửa đời người, thấy đời
mình cũng đã “sang thu”. Đó cũng là tâm trạng của tác giả - một người lính đã
trải qua bao đạn bom, khói lửa chiến trường trước khi được cảm nhận mùa thu
thanh bình, được chứng kiến hòa bình độc lậphôm nay. Nhìn lại quãng đời đã qua,
ta vừa như muốn sống chậm lại để nghỉ ngơi, tận hưởng cuộc sống, vừa cảm thấy
mình chưa làm được gì nhiều nên muốn khẩn trương, gấp gáp hơn. Như vậy sự “dềnh
dàng” của sông và “vội vã” của chim trong khổ thứ hai cũng là để chỉ sự thay
đổi của con người lúc thu sang nữa. Thu không chỉ tới trong thiên nhiên đất
trời mà cả trong suy nghĩ, trong tâm tưởng mỗi người. Khổ thơ thứ ba đã hoàn
chỉnh ý thơ của cả bài và gợi ra nhiều suy ngẫm về triết lí mà tác giả muốn gửi
gắm tới độc giả.
Mác-xen
Prút-xơ đã từng nói : “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.” Cũng
chỉ là mùa thu thôi mà mỗi nhà thơ có một cách thể hiện thật khác biệt. Hữu
Thỉnh cũng vậy, ông không chỉ cảm nhận được mùa thu đến trong từng hơi thở của
đất trời mà còn truyền tải những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến khó tả của mình
đến với người đọc bằng những hình ảnh rất giàu sức gợi. Để rồi khi đọc xong bài
thơ, ta chợt thấy như thu đã về trong tâm hồn mình.
Có
ai từng nói : “Thơ là người thư ký chân thành của trái tim”. Quả vậy, bài thơ
“Sang thu” đã thể hiện những chuyển biến của thiên nhiên đất trời lẫn trong tâm
hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Hữu Thỉnh không chỉ mang tới những cảm
nhận tinh tế, sáng tạo, những hình ảnh đẹp và giàu sức gợi cảm mà còn làm dậy
lên trong ta tình yêu đối với thiên nhiên, với làng quê thôn xóm và rộng hơn
nữa là cảnh thanh bình trên đất nước. Nhà thơ còn muốn gửi gắm một thông điệp
về cuộc sống. Sau những thử thách, gian lao của cuộc đời, con người sẽ trưởng
thành hơn, điềm tĩnh hơn trước những tác động của cuộc sống.
Nguồn: Sưu tầm