Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Hữu Thỉnh với bài “Sang thu”.

“Thu là thơ của đất trời. Thơ là thu của lòng người”. Đúng vậy, mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm – đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như văn học trung đại có Nguyễn Khuyến với ba bài thơ thu nổi tiếng, văn học cận đại có Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”, Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” thì văn học hiện đại cũng có Hữu Thỉnh với bài “Sang thu”.
Bằng cảm nhận tinh tế và những hình ảnh giàu sức biểu cảm, bài thơ “Sang thu” đã thể hiện những biến chuyển của đất trời và tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ “Sang thu”, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước mùa thu trong hòa bình. Thể thơ năm chữ đã giúp miêu tả tinh tế và sâu sắc những biến chuyển của đất trời vào buổi giao mùa từ hạ sang thu.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

Khổ thơ, và cả bài thơ, được mở ra bằng một chữ “bỗng”, gợi nên cảm giác bất ngờ, đột ngột, đầy ngỡ ngàng của tác giả khi nhận thấy những dấu hiệu báo mùa thu tới. Thơ ca tự cổ chí kim đã viết rất nhiều về những dấu hiệu ấy, từ sắc vàng hoa cúc cho tới lá khô rải thảm, ngô đồng nhất diệp lạc… Hữu Thỉnh không đi theo lối mòn ấy, mùa thu trong ông bắt đầu với “hương ổi” – mùi hương vô cùng giản dị và gần gũi của vùng nông thôn miền Bắc quê ông. Nếu như cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào đã nhận ra mùa thu tới chỉ bởi hình ảnh “Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau” thì bây giờ Hữu Thỉnh nhờ đến hương ổi để nhận ra điều đó. Phải là một người yêu quê hương tha thiết mới có thể viết được như thế ! Từ “phả” ở đây được dùng rất chính xác, động từ ấy đã gợi lên hương ổi thơm đậm đà, hòa quyện và sánh lại trong gió. Những cơn gió se hơi khô, hơi lạnh đặc trưng của mùa thu ấy lại càng tinh lọc, cô đặc thêm mùi hương. Chúng đem hương ổi, hương thu tới từng ngõ ngách, đánh thức tâm hồn thi sĩ. Từ “se” là đang tả gió, hay là tả cái co mình hơi run của vạn vật khi gió lướt qua ? Từ gió, tác giả nhận ra sương. 

"Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Sương giăng mắc khắp không gian như một tấm màn hơi nước mỏng. Từ láy “chùng chình” như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến ủa nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ, rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (“hương ổi”), xúc giác (“gió se”), cả thị giác (“sương chùng chình”), tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về.

Sau cảm giác ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới bắt đầu xem xem “thu đã về” có là thật hay không. 

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”

Không gian của ý thơ được mở rộng. Bức tranh thu không còn chỉ gói gọn trong không gian nhỏ hẹp của “ngõ” với những nét vô hình như “hương”, “gió” mà trở nên rộng hơn, cao hơn với những thứ hữu hình, cụ thể như “sông”, “chim”, “mây”. Vế đối ở hai câu đầu rất chặt chẽ, rất thực nhưng vẫn rất đẹp, rất thơ. Dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Từ láy “dềnh dàng” đã tả được hết êm ả, lững lờ như thể sông đang lắng lại, đang trầm tư, suy ngẫm. Nhịp chảy chậm rãi, thư thả ấy kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Phải chăng dòng sông ấy cũng chính là dòng sông “Dùng dằng hoa quan họ / Nở tím bên sông Thương” trong bài “Chiều sông Thương” cùng tác giả ? Tương phản với sông là sự vội vã của chim. Khi khí trời chuyển lạnh cũng là lúc các loài chim chuẩn bị cho chuyến di cư về phương Nam tránh rét trong mùa đông. Chúng “vội vã” vì mùa thu tới báo hiệu một mùa đông lạnh giá cũng sắp đến gần. Và mới chỉ “bắt đầu vội vã” thôi, chứ chưa phải là đang vội vã, tức là mới chỉ là “sang thu” thôi chưa hẳn là đã thu. 

"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"

Vì chưa hẳn vào thu nên mới có một “đám mây mùa hạ” duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây ấy cũng có nét gì đó giống “Đám mây trên Việt Yên / Rủ bóng về Bố Hạ” trong “Chiều sông Thương” nhưng ở “Sang thu” vẫn đẹp hơn, thơ hơn vì nó là đám mây chuyển mùa. Bầu trời lúc ấy như một bức tranh tuyệt đẹp về màu sắc, trải từ sắc hạ sang sắc thu. Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được, mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo của mình.

Nếu như cái hay của khổ đầu tiên là ở những từ ngữ gợi nên nhiều ẩn ý, cái đẹp của khổ thứ hai là ở những hình ảnh thơ đẹp và tinh tế thì khổ ba nổi bật lên nhờ ý nghĩa triết lí trong đó. Mùa thu không còn được cảm nhận trực tiếp nữa mà qua kinh nghiệm, bằng sự suy ngẫm của nhà thơ. 

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Vẫn có “nắng”, có “mưa”, có “sấm” như mùa hạ, nhưng tất cả đều đã đi vào chừng mực, ổn định, tạo cảm giác lắng đọng. Nắng tuy “vẫn còn” nhưng không còn gay gắt, oi ả và chói chang nữa mà đã dịu đi. Những cơn mưa rào xối xả cũng vơi đi, nhẹ bớt dần. Dường như khí thu khiến cho vạn vật đều muốn nghỉ ngơi. Ngay cả sấm chớp, bão dông cũng không còn đột ngột, bất chợt nữa. Nhưng Hữu Thỉnh đâu chỉ viết một bài thơ tả cảnh “sang thu” bình thường, trong đó là một điều sâu xa hơn thế. Nghệ thuật ẩn dụ trong hai câu thơ cuối đã gợi ra tính chất triết lí của bài thơ. “Sấm” không chỉ là dông bão, mà còn là những khó khăn, thách thức của cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” kia cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người sau khi trải qua những giao lao ấy. Bão táp, dông tố của cuộc sống sẽ cho ta thêm kinh nghiệm, tôi luyện ý chí, giữ cho ta sự điềm tĩnh để kiên cường đối mặt với những khó khăn sắp tới. Qua đó, con người sẽ trưởng thành hơn, sâu sắc và thâm trầm hơn, vững vàng hơn trước những tác động của ngoại cảnh. Điều đó đã giải thích vì sao khi nhận thấy mùa thu, nhà thơ không reo lên “Thu đã về !” mà chỉ cảm nhận rồi mơ hồ tự hỏi “Hình như thu đã về”. “Đứng tuổi” cũng là lúc đã qua thời thanh niên sôi nổi bồng bột để chợt nhận ra rằng sao thời gian trôi qua thật nhanh, bỗng chốc mà đã nửa đời người, thấy đời mình cũng đã “sang thu”. Đó cũng là tâm trạng của tác giả - một người lính đã trải qua bao đạn bom, khói lửa chiến trường trước khi được cảm nhận mùa thu thanh bình, được chứng kiến hòa bình độc lậphôm nay. Nhìn lại quãng đời đã qua, ta vừa như muốn sống chậm lại để nghỉ ngơi, tận hưởng cuộc sống, vừa cảm thấy mình chưa làm được gì nhiều nên muốn khẩn trương, gấp gáp hơn. Như vậy sự “dềnh dàng” của sông và “vội vã” của chim trong khổ thứ hai cũng là để chỉ sự thay đổi của con người lúc thu sang nữa. Thu không chỉ tới trong thiên nhiên đất trời mà cả trong suy nghĩ, trong tâm tưởng mỗi người. Khổ thơ thứ ba đã hoàn chỉnh ý thơ của cả bài và gợi ra nhiều suy ngẫm về triết lí mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả. 

Mác-xen Prút-xơ đã từng nói : “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.” Cũng chỉ là mùa thu thôi mà mỗi nhà thơ có một cách thể hiện thật khác biệt. Hữu Thỉnh cũng vậy, ông không chỉ cảm nhận được mùa thu đến trong từng hơi thở của đất trời mà còn truyền tải những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến khó tả của mình đến với người đọc bằng những hình ảnh rất giàu sức gợi. Để rồi khi đọc xong bài thơ, ta chợt thấy như thu đã về trong tâm hồn mình.

Có ai từng nói : “Thơ là người thư ký chân thành của trái tim”. Quả vậy, bài thơ “Sang thu” đã thể hiện những chuyển biến của thiên nhiên đất trời lẫn trong tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Hữu Thỉnh không chỉ mang tới những cảm nhận tinh tế, sáng tạo, những hình ảnh đẹp và giàu sức gợi cảm mà còn làm dậy lên trong ta tình yêu đối với thiên nhiên, với làng quê thôn xóm và rộng hơn nữa là cảnh thanh bình trên đất nước. Nhà thơ còn muốn gửi gắm một thông điệp về cuộc sống. Sau những thử thách, gian lao của cuộc đời, con người sẽ trưởng thành hơn, điềm tĩnh hơn trước những tác động của cuộc sống.

Nguồn: Sưu tầm

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Nói với con của Y Phương - Một khúc nhạc Đàn Tính nhiều cung bậc

       Trong số các nhà thơ dân tộc thiểu số, Y Phương là gương mặt khá tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày. Y Phương tự nhận mình là cây đàn Tính của dân tộc Tày: “Cây đàn này đâu phải cây đàn / Bầu nước mắt trăm năm cười khóc / Cây đàn này đâu phải cây đàn / Bọc sinh nở, lời chào ly biệt / Vụt đứng lên cây đàn dìu dặt / "Đi như thế cho đến ngày nhắm mắt" / Ngôn ngữ cổ còn vài câu tích tịch / Hãy gẩy lên bất cứ nơi nào” (Đàn Tính).
       Cây đàn Tính có cái tên Y Phương ấy luôn cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của cộng đồng người Tày. Dù viết về làng, về tình yêu đôi lứa hay về tình phụ tử, Y Phương cũng luôn có ý thức tái hiện linh hồn của văn hóa quê hương. Từ thơ Y Phương, người đọc có thể nhận ra một vùng văn hóa độc đáo và có bề dày mà ít nhiều còn khá bí ẩn. Bài thơ Nói với con là một khúc nhạc đàn Tính như thế - một khúc nhạc đan xem nhiều cung bậc.
         Mang hình thức là những lời tâm tình, mộc mạc của người cha dành cho con nhưng vấn đề mà tác phẩm đặt ra không chỉ là tình phụ tử. Sự độc đáo ở “chất giọng” khiến tác phẩm vừa đầy hấp lực nhưng cũng có không ít trở lực đối với người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu văn học. Khi được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 9 THCS, người ta càng nhận rõ điều này.
       Xin được bắt đầu từ lối tư duy nghệ thuật trong bài thơ. Bài thơ có nhiều hình ảnh ngỡ phi lí, là kết quả của sự hòa hợp rất nhuyễn giữa tư duy nghệ thuật dân gian miền núi và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại. Nếu tư duy nghệ thuật dân gian miền núi ưa dùng lối trùng điệp thì tư duy nghệ thuật của thơ Tượng trưng và Siêu thực lại thích tìm đến sự giao thoa giữa các cảm giác và sự coi trọng nhạc tính của ngôn ngữ thơ. Có thể nhận diện sự hòa hợp ấy ngay trong những câu thơ đầu:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
       Bốn câu thơ này là bức tranh về cảnh gia đình đầm ấm. Trong đó có ba nhân vật: người mẹ, người cha và đứa trẻ mà trung tâm là hình ảnh đứa trẻ đang tập đi. Sự hòa hợp giữa tư duy nghệ thuật dân gian miền núi và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực đã được hóa thân thành các thủ pháp nghệ thuật để tái hiện những cử chỉ của đứa trẻ: có thủ pháp trùng điệp, có nghệ thuật sử dụng đối ý (chân phải - chân trái, một bước - hai bước, cha - mẹ, tiếng nói - tiếng cười) và có nghệ thuật tạo nhạc tính bằng sự phối thanh, bốn câu thơ dùng đến 15/20 thanh trắc. Sự cộng hưởng của những thủ pháp nghệ thuật và nhất là sự phối thanh đã tạo nên những âm điệu gân guốc. Âm điệu ấy thích hợp với việc tái hiện hình ảnh đứa trẻ đang lẫm chẫm tập đi, cứ “chân phải” rồi “chân trái” một cách chập chững khó khăn. Khó khăn nhưng đầy phấn khích vì sự khích lệ nhiệt thành của cha mẹ. Cách dùng số đếm: “một bước”, “hai bước” cho thấy ánh nhìn của cha mẹ thật chăm chú, quan sát từng cử chỉ, trông chờ, đếm từng bước đi của con. Những bước chân lẫm chẫm được bao bọc bởi tình yêu thương của cha mẹ, tạo ra sự đáng yêu của đứa trẻ. Cứ như mỗi bước đều là một “thành tựu”, một dấu mốc cần được đếm để ghi nhớ. Nhưng điều lí thú hơn không phải là cách dùng số đếm mà là lối liên tưởng có vẻ phi lí, ngộ nghĩnh kiểu tư duy thơ Tượng trưng: “Một bước chạm tiếng nói / Hai bước tới tiếng cười”. Tiếng nói, tiếng cười vốn vô hình nhưng lại được hữu hình hóa để trở thành “cọc tiêu” định vị cho đứa trẻ “bước tới”. Thực ra, đó là hình thức “lạ hóa” ngôn từ để diễn tả không khí hạnh phúc trong ngôi nhà. Cơ hồ như khi đứa trẻ “cán đích” cũng là lúc cả ngôi nhà như rung lên, cả không gian xung quanh tan thành tiếng nói cười.
        Đến những câu thơ tiếp theo, bài thơ bắt đầu chuyển mạch, chuyển giọng. Sau tiếng nói, tiếng cười ran lên từ “thành quả” tập đi, từ những bước đi đầu tiên của bé, chất thơ bắt đầu đọng vào sự sâu lắng suy tư khi nhân vật trữ tình - người cha “nói với con” về những điều ấp ủ. Từ đây, mạch thơ cứ đan cài giữa lòng yêu thương con và niềm tự hào về quê hương xứ sở.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời.
       Tứ của những câu thơ này tập trung xoay quanh ba hình ảnh. Thứ nhất là hình ảnh con người quê hương (được gọi bằng cái tên mộc mạc mà thân thương - người đồng mình). Hình ảnh này được miêu tả qua đôi bàn tay đan lờ bắt cá và ken vách làm nhà. Đó là bàn tay tài hoa. Hai động từ “đan” và “ken” vốn chẳng có gì sáng tạo, vậy mà ở đây chúng lại có một sức ám gợi đặc biệt. Hai động từ này đều có nét nghĩa tạo sự bện kết nhưng khi được liên tưởng tới “cài nan hoa” và “ken câu hát” thì chúng lập tức diễn tả một sự bện xoắn giữa giá trị lao động và giá trị nghệ thuật, bàn tay lao động cũng đồng thời là bàn tay tạo tác, mỗi thứ đồ vật cũng là một tạo tác văn hóa. Nhất là lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát”. Cũng như tiếng nói, tiếng cười ở bốn câu đầu, câu hát vốn phi vật thể lại được hình hài hóa thành vách nhà. Y Phương giải thích rằng: “Một điều nữa “vách nhà ken câu hát” là yếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất, bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa(1). Vậy là chỉ cần miêu tả đôi bàn tay với những chi tiết ngỡ phi lí, Y Phương đã tái hiện một nét tính cách đặc trưng của người Tày, ấy là lòng yêu ca hát, là sự tài hoa, lãng mạn. Và hơn thế, “vách nhà ken câu hát” đã làm bừng dậy một không gian văn hóa riêng miền cao. Thứ hai là hình ảnh mảnh đất quê hương (được chấm phá bởi hai biểu tượng: “rừng” và “con đường”): “rừng cho hoa / con đường cho những tấm lòng”. Có thể diễn ý thơ thế này chăng: “Rừng cho hoa” là biểu tượng của thiên nhiên thơ mộng, cũng là biểu tượng của sự sinh sôi, biểu tượng của sức sống (hiểu theo nghĩa đơm hoa - kết trái). Con đường cũng là biểu tượng quen thuộc trong thơ ca để chỉ sự xóa nhòa các lằn ranh. “Con đường cho những tấm lòng” bởi nhờ nó mà con người có thể đến được với nhau. Vì thế, con đường là sợi dây nối liền tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ. Bằng điệp từ “cho”, cũng là động từ chỉ sự trao tặng, dâng hiến, tác giả đã dành những lời ngợi ca ngắn gọn mà giàu cảm xúc về hình ảnh một mảnh đất quê hương hào phóng - mảnh đất đã ban tặng cho con người những gì tinh túy nhất: “cho hoa” và “cho những tấm lòng”. Thứ ba là hình ảnh “ngày cưới” của cha mẹ, là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ba hình ảnh này: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ ngỡ chẳng liên kết gì và mạch thơ ngỡ như tản mạn nhưng xét kĩ lại khá tập trung. Chúng đều là những hình ảnh thơ nằm ở độ “thăng hoa”. Con người thì tài hoa, thiên nhiên thơ mộng hào phóng và nỗi nhớ thì gắn với ngày “đẹp nhất trong đời”. Cả ba hình ảnh đều đồng lòng gợi thức dậy ở đứa trẻ tình yêu thương, lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc màu cổ tích. Đó là thế giới của những con người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên những cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế sẽ đủ sức bao bọc con trong những êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.
      Trong ba hình ảnh kể trên, tôi muốn bàn nhiều về vẻ đẹp của con người quê hương. Điều đó không hẳn do những liên tưởng thơ độc đáo mà là vị trí của hình ảnh này trong toàn tác phẩm. Điệp ngữ “người đồng mình” lặp lại bốn lần, tuy mỗi lần diễn tả một nét phẩm chất riêng song tổng gộp lại, “người đồng mình” là hiện thân đầy đủ nhất của truyền thống quê hương. Không chỉ tài hoa lãng mạn, “người đồng mình” còn là nơi hội tụ của ý chí, nghị lực, sự trong sáng nghĩa tình: “Người đồng mình thương lắm con ơi / Cao đo nỗi buồn / Xa nuôi chí lớn”; “người đồng mình” có thể “sống trên đá không chê đá gập ghềnh / Sống trong thung không chê thung nghèo khó” nghĩa là sống thủy chung, ơn nghĩa sâu nặng với quê hương, nghĩa là có khả năng thích nghi kỳ lạ trong bất cứ hoàn cảnh nào, như cây rừng có thể sinh sôi trên đá, xanh tốt trong thung, “người đồng mình” có thể bình thản đối mặt với gian khổ mà “không lo cực nhọc”, có thể vượt lên những cực nhọc bằng tính cách nhẫn nại phi thường:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
       Trong hai câu này, câu trên có ba thanh trắc liền nhau “tự - đục - đá”. Sự liên hoàn của ba thanh trắc tạo nên âm điệu trúc trắc, nặng nhọc. Âm điệu ấy có tác dụng đắc địa trong việc tái hiện sự cặm cụi, nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Tiếp sau đó, bốn thanh bằng liên tiếp lại tạo ra một âm điệu nhẹ nhàng “kê - cao - quê - hương”. Sự liên hoàn của thanh bằng lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh mang đất trời. Từ âm điệu trúc trắc đến nhẹ nhàng cũng tựa như một khúc thức trong một bản nhạc, mô phỏng hành trình của quê hương từ sự khó nhọc nặng nề khi dựng nghiệp đến khi ung dung, khoan khoái trước thế đứng vượt lên trên những “gập ghềnh” của đá. Câu thơ dưới có 6 chữ mang thanh bằng và cuối câu lại là thanh trắc: “Còn - quê - hương - thì - làm - phong - tục”. Sự chuyển đổi âm điệu bằng trước - trắc sau ở câu này cũng là sự chuyển điệu từ êm nhẹ trước (bằng), nặng lắng (trắc) sau, là hướng chuyển điệu ngược lại với câu trên. Kết thúc bằng thanh trắc, câu thơ đã gợi được sự kết dệt, lắng đọng của những giá trị văn hóa bền vững. Nói rằng hai câu thơ này chứa đựng niềm tự hào về con người quê hương cũng được mà nói rằng đó là một triết lí được đúc rút từ bề dày truyền thống chắc cũng chẳng sai. “Sống trên đá không chê đã gập ghềnh” là thế, “tự đục đá kê cao quê hương” cũng là thế. Đó là sự hình tượng hóa quá trình không ngừng nghỉ của bao thế hệ “người đồng mình” nhằm tạo ra những giá trị sống. Đó là quá trình đầy cực nhọc và trong quá trình ấy, tâm hồn, trí tuệ của những con người “sống trên đá” đã lắng đọng lại thành những tập quán, phong tục hay nói rộng hơn là thành một bản sắc văn hóa riêng. Không biết có phải dụng ý của Y Phương hay không nhưng hai câu thơ này cứ như một khái quát về hành trình dựng nghiệp của tổ tiên từ thuở “khai thiên lập địa” đến giờ. Người đồng mình “tự đục đá” chứ không hề thụ động, chẳng dựa vào lực lượng siêu nhiên nào để kiến tạo quê hương.
       Ở một phương diện nào đó, có thể coi, bài thơ Nói với con cũng là một trong những bằng chứng đánh dấu sự chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình. Trong những năm chiến tranh, truyền thống văn hóa cũng là đề tài hấp dẫn nhiều nhà thơ. Tuy nhiên, do yêu cầu của thời đại, người nghệ sĩ nếu có viết về truyền thống cũng không ngoài mục đích nhen lên ở người đọc niềm tự hào dân tộc. Đánh thức niềm tự hào dân tộc cũng là cách khơi lên sức mạnh tinh thần mà đánh giặc. Chẳng hạn, Nguyễn Khoa Điềm, song hành với việc tái hiện dáng vóc đất nước bằng những giá trị văn hóa đã nhắn nhủ thế hệ trẻ vùng tạm chiếm ở miền Nam: “Khi chúng ta cầm tay mọi người / Đất nước vẹn tròn to lớn” (Mặt đường khát vọng). Trong lời nhắn ấy có hàm ngôn chua chát: “chúng ta” (thế hệ trẻ ở các đô thị miền Nam) chưa hòa chung vào không khí đấu tranh của cả dân tộc, chưa “cầm tay mọi người” nên đất nước vẫn còn bị chia cắt, chưa được “vẹn tròn to lớn”. Bài thơ Nói với con được viết khi giặc tan rồi. Chiến tranh được đẩy lùi nhưng nguy cơ mai một truyền thống lại nhỡn tiền. Như thế nếu điều Nguyễn Khoa Điềm quan tâm là chủ quyền, là đất nước thống nhất thì điều mà Y Phương quan tâm lại là bản sắc văn hóa. “Bài thơ Nói với con tôi viết năm 1980 - Y Phương nói - Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống” và vì thế “cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc (…) Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa”(2). Từ những lời tâm sự này mà suy ra thì khi viết bài thơ Nói với con, Y Phương muốn giãi tỏ nỗi lo âu về sự mai một những giá trị văn hóa truyền thống trước tâm lí “hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc” của xã hội. Dấu hiệu ít ỏi nhưng dễ thấy nhất của nỗi lo âu ấy là câu thơ “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”. Câu thơ này chia rõ làm hai trạng thái tâm tư: vừa là những dự cảm lại vừa đầy những khát khao. Ở nửa thứ nhất của câu thơ, ba từ “dẫu - làm - sao” là những dự cảm về sự đổi thay của thời cuộc. Đó không chỉ là tâm sự của Y Phương mà còn là nỗi niềm của cả một thế hệ nhà thơ ở thời kỳ đầu thống nhất đất nước. Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy từng mượn hình ảnh lời ru để thể hiện hoài nghi về số phận của những giá trị truyền thống: “Bà ru mẹ, mẹ ru con / Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?”. Như thế, điều mà Y Phương đặt ra cũng là vấn đề mang tầm thời đại. Đó cũng là vấn đề không thể xem thưởng bởi một lẽ đơn giản, một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa cũng đồng nghĩa với việc gương mặt tinh thần của dân tộc ấy bị xóa nhòa. Y Phương chắc cũng chưa hình dung hết số phận của những giá trị văn hóa truyền thống sẽ ra sao nhưng ba từ “dẫu - làm - sao” đã chứa chất đầy những đau đáu lo âu. Không lo sao được khi một người nặng lòng với cội nguồn mà phải chứng kiến nguồn cội của mình có vẻ như lung lay. Một trong những bằng chứng về sự nặng lòng ấy là những câu thơ trong bài Tên làng của ông: “Ơi cái làng của mẹ sinh con / Có ngôi nhà xây bằng đá hộc / Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt / Có niềm vui lúa chín tràn trề / Có tình yêu tan thành tiếng thác / Vang lên trời / Vọng xuống đất / Cái tên làng Hiếu Lễ của con”. Sau ngót 20 năm kể từ khi viết bài thơ, Y Phương lại than phiền “Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan(3). Ở nửa thứ hai của câu thơ, ba chữ “cha - vẫn - muốn” lại là một khát khao da diết. Từ “vẫn” nếu đứng độc lập sẽ chẳng có gì đặc biệt nhưng trong câu thơ này, nó được xem như một “nhãn tự” thể hiện ý thức bám víu quyết liệt. “Nhãn tự” này đã tạo cho câu thơ có một sắc thái bản lĩnh. Đó là biểu hiện của tâm thế ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà người cha muốn truyền cho con. Cái “vạn biến” là thời cuộc, là hoàn cảnh sống. Hoàn cảnh sống có thể luôn biến đổi, mọi chuẩn mực hôm qua có thể không thích hợp với hôm nay,… thì người cha cũng chỉ mong muốn con mình giữ tâm thế “bất biến” trong ứng xử - cái tâm thế mà “dẫu làm sao” thì con cũng đừng quên cội nguồn sinh dưỡng: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh / Sống trong thung không chê thung nghèo khó”, “dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có dâu bể “vạn biến” đến mức như khi “lên thác”, lúc “xuống ghềnh” thì con cứ “sống như sông như suối”. Đó là cách so sánh khá sâu sắc. Sông suối là biến thể của biểu tượng nước, đối lập với hình ảnh đá trong bài thơ, nếu đá thuộc về “tính cương” thì nước thuộc về “tính nhu”, là biểu tượng của sự hồn nhiên, trong sáng, đồng thời cũng là biểu tượng của sức mạnh trí tuệ. Nước mềm mại nhưng “nước chảy đá mòn”, nước mềm mại nhưng có thể mạnh như thác lũ. Người cha muốn con phải kế thừa được tính cách truyền thống của “người đồng mình - “sống như sông như suối” là sống trong sáng, kiên nghị, mạnh mẽ “không lo cực nhọc”. Hồn nhiên đấy, tuy “thô sơ da thịt” đấy, chẳng diêm dúa cũng chẳng yêng hùng, khiêm nhường là vậy nhưng con người quê hương mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Vậy thì, để sống xứng đáng với truyền thống ấy, khi bước vào đời “không bao giờ nhỏ bé được / nghe con”. Đó là những câu kết ngắn gọn và chắc nịch, cũng là lời giáo huấn nghiêm khắc, là niềm hi vọng tha thiết mà người cha kỳ vọng ở con.
       Tiếp cận tác phẩm này, cũng không nên cứng nhắc bám vào câu nói của Y Phương: lời thơ “tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình(4). Y Phương làm thơ không phải để để tặng tri kỉ như thời trung đại (ở thời trung đại, chỉ số ít người được ăn học mới biết chữ nên người trí thức sáng tác thơ ca không phải hướng đến công chúng mà chủ yếu để dành cho việc đối đáp, thù tạc trong các buổi yến tiệc hoặc dành tặng tri âm,…). Cũng như phần lớn thơ hiện đại, bài thơ Nói với con được sáng tác để đăng báo, để in thành sách. Vì thế, ngoài việc “nói với con” và “tâm sự với mình”, người nghệ sĩ còn phải hướng đến đông đảo công chúng và muốn truyền đến công chúng một thông điệp từng ấp ủ. Hiểu như vậy thì hình ảnh đứa trẻ trong bài thơ cũng vượt khỏi giới hạn là cô con gái đầu lòng của nhà thơ để trở thành biểu tượng của tương lai. Chắc chắn là vậy, con chính là biểu tượng của tương lai. “Nói với con” do đó còn là lời tâm sự, là di nguyện để gửi đến các thế hệ tương lai. Thì ra, việc kể cho con nghe về hành trình của cha ông phải dựng nghiệp trên đá, phải “tự đục đá kê cao quê hương” không phải để “ôn nghèo kể khổ” mà - như đã nói trên, để mong muốn con biết quý trọng thành quả do cha ông đã để lại. Từ đó, đặng nhen lên ở con, ở các thế hệ mai sau ý thức bảo tồn, bảo lưu những giá trị văn hóa mà cha ông đã dày công vun trồng.
      Cuối cùng cũng cần nói về kết cấu của tác phẩm. Trong bài thơ, Y Phương dùng khá nhiều hình tượng lạ nhưng tiêu biểu nhất là cặp hình tượng đôi chân và con đường. Cặp hình tượng này khi lộ diện, lúc ẩn mình mà chủ yếu là ẩn mình nhưng có tác dụng quyết định trong việc tổ chức kết cấu của tác phẩm. Bắt đầu là đôi chân đến với mẹ cha, là đôi chân “chạm tiếng nói”, “tới tiếng cười”, rồi đôi chân dẫn đứa trẻ từ gia đình, theo “con đường cho những tấm lòng” đến với cộng đồng để hít thở, tắm mình trong bầu khí quyển văn hóa của quê hương. Cuối cùng là đôi chân: “lên đường / không bao giờ nhỏ bé được”. Từ lâu, các nhà lí luận phê bình đã phát hiện thấy kết cấu trong tác phẩm nghệ thuật cũng là một phương diện tạo nghĩa. Nhìn từ “sơ đồ” hành trình của đôi chân đứa trẻ mà người cha “phác thảo”, có thể thấy, đích đến đầu tiên là cha mẹ, đích đến thứ hai là môi trường văn hóa quê hương và cái đích cuối cùng là vào đời. Tôi ngờ rằng, kết cấu này không thể nằm ngoài ý nghĩa triết lí mà Y Phương muốn kí thác. Nghĩa là, theo Y Phương, mỗi con người muốn trưởng thành thì cần phải xuất phát từ gia đình, phải biết đến cha mẹ; sau nữa phải thủy chung với quê hương. Gia đình và quê hương là môi trường bồi đắp những giá trị sống nhân văn. Có gắn bó với gia đình, với quê hương tức là biết sống theo đạo lí “uống nước nhớ nguồn” mới tiếp nhận được vốn văn hóa đủ để khi bước vào đời “không bao giờ nhỏ bé được / nghe con”. Có thể, có người không đồng ý với quan niệm này của Y Phương nhưng tính nhân văn trong đó là điều không thể phủ nhận.
        Nói với con của Y Phương là bài thơ cũng “thô sơ da thịt” nhưng “không bao giờ nhỏ bé được” vì tác phẩm đã làm sống dậy những nét bản sắc văn hóa của một cộng đồng, đặt ra những vấn đề mang tầm thời đại - vấn đề bảo lưu và phát triển văn hóa. Đặt vào bối cảnh hội nhập ngày nay, khi những sản phẩm văn hóa nước ngoài (ngoài mặt tích cực) đã khiến phần nhiều giới trẻ Việt Nam ngày càng nhạt tình với vốn văn hóa truyền thống ta mới thấm thía điều mà Y Phương đã dự cảm./.


Nguyễn Thư - Sở GD&ĐT Bắc Giang

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như hoạ sĩ dùng đường nét và sắc màu, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng hình ảnh và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình-đặc biệt là diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu cái men say nồng của sắc xuân hương xuân. Hãy lật từng trang sách đến với bốn câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hãy hoà nhịp tâm hồn vào đất trời xứ Huế với sáu câu thơ đầu trong Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, bạn sẽ thấy non sông gấm vóc, quê hương Việt Nam đẹp biết bao!
                   Ngày xuân con én đưa thoi
           Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
                   Cỏ non xanh tận chân trời
           Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Và:
           Mọc giữa dòng sông xanh
           Một bông hoa tím biếc
           Ơi! Con chim chiền chiện
           Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
             Nguyễn Du và Thanh Hải - Họ tuy không cùng một thế hệ thơ, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng trong tâm hồn của những người nghệ sĩ ấy luôn tràn đầy một tình yêu thiên nhiên đến lạ kì! Ngòi bút cuả các thi sĩ đã thăng hoa, đã đồng điệu với vạn vật tự nhiên, thổi vào đó một tình xuân, ý xuân ngọt ngào say đắm. Sao không yêu chứ, sao không ngây ngất chứ! Vẻ đẹp của xuân quê hương, xuân của lòng người rộn rã lắm, náo nức lắm.
              Mùa xuân ấy là màu xanh bát ngát của sự sống, của những chồi non lộc biếc đang cựa quậy trong từng vần thơ. Hai nguồn thi cảm ở hai thời đại cùng nhả những sợi tơ lòng dệt nên bức hoạ tuyệt đẹp của mùa xuân có hình khối màu sắc, có xa, có gần, có tĩnh có động, có nhịp đập trái tim thổn thức, có âm thanh rộn rã, có tình người đắm say. Chỉ một vài nét chấm phá mà sao hai bức tranh xuân ấy lại đẹp đến vậy.
Nguyễn Du tài hoa, uyên bác trong ngôn từ khi gợi tả mùa xuân. Nhà thơ đã kế thừa và sáng tạo từ một câu thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo thiên liên bích/Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu như nhà thơ cổ Trung Quốc đã phác hoạ bức tranh xuân có màu xanh của cỏ non, có vẻ đẹp của mấy bông hoa lê trên cành thì Nguyễn Du lại thể hiện được cả sức xuân căng tràn, dào dạt của cỏ...
                   Ngày xuân con én đưa thoi
           Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
                   Cỏ non xanh tận chân trời
           Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
         Cỏ càng xanh, hoa càng trắng, chỉ mấy chữ “non”, “xanh”, “trắng” mà như chứa cả hương thơm, cả sắc màu, cả tình người gửi vào đó.Bốn câu thơ tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nguyễn Du báo tín hiệu mùa xuân bằng “én đưa thoi”
                                    “Ngày xuân con én đưa thoi
                            Thều quang chín chục đã ngoài sáu mươi ”.
Nguyễn Du đã dùng không gian để vẽ thời gian.Thời gian - thấm thoắt đã trôi qua hai tháng, nhanh như thoi đưa, chỉ đọng lại ánh sáng rực rỡ, cuối cùng của mùa xuân trong tiết thanh minh. Hai chữ “đưa thoi ”rất gợi hình gợi  cảm .Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua, bay lại chao lượn , vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trôi nhanh.Nhà thơ mượn cách nói của dân gian, “thời gian thấm thoắt thoi đưa” để miêu tả. Cảnh ngày xuân hiện nên trong thơ ông vừa bình dị vừa sống động. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thều quang ” của mùa xuân khi đã ngoài sáu mươi. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang những nét rất riêng. Hai chữ “Thều quang ”để thể hiện mùa xuân đã sang tháng ba .Hai chữ ấy đã gợi nên màu hồng của ánh xuân , cái đầm ấm của khí xuân, cái mêng mông bao la của đất trời .Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân thật trong sáng. Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới tận chân trời .
                            “ Cỏ non xanh tận chân trời
                            Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”.
             Nguyễn Du dùng những thi liệu là “cỏ non”, cánh “én đưa thoi”, “thiều quang”, “hoa lê trắng” để vẽ lên bức tranh xuân cao rộng, thoáng đãng đầy thi vị.Ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa.Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trắng lên trước cụm từ “vài bông hoa”để cùng với tính từ “ xanh ”ở câu trên .Câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành bức hoạ với gam màu dịu dàng.Trên nền xanh của cỏ biếc, điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng đã tạo thành một bức gấm thêu.Nghệ thuật phối hợp sắc màu của Nguyễn Du thật tài tình. Cái màu xanh –trắng hài hoà ấy gợi lên cảm giác cảnh mênh mông mà không quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết .
          Nguyễn Du  đã vẽ một bức tranh ngày xuân bằng ngôn từ .Bức tranh ấy đẹp, bình dị mà thơ mộng.Đó là bức tranh có màu sắc hài hoà, dịu dàng, tươi tắn. Vẽ được bức trang xuân hoa lê như vậy đã thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du.
Còn Thanh Hải lại đằm thắm, ngọt ngào với những vần thơ đầy ắp hình ảnh.
Mọc giữa dòng sông xanh
           Một bông hoa tím biếc
           Ơi! Con chim chiền chiện
           Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Nhà thơ đã phác họa một bức tranh với âm thanh, màu sắc, với sức xuân hài hòa, sống động. Thanh Hải với cách đảo động từ “mọc” đã phác hoạ một hình ảnh rất ấn tượng về sự sống mãnh liệt của loài hoa lục bình xứ Huế đang vươn lên giữa phông nền của dòng sông xanh căng tràn sức sống. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ một bông hoa thôi, một bông hoa tím biếc cũng làm nên sức xuân, cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu. Thanh Hải đã dùng những hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, tiếng “chim chiền chiện hót vang trời “để làm nên cái độc đáo mà chỉ ở quê hương xứ Huế mộng mơ mới có. Bức tranh xuân có gam màu thật hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn: màu xanh lam của nước sông Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím thật giản dị, thủy chung mà cũng thật mộng mơ, quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của xứ Huế, một màu rất Huế. Bỗng đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời.Với những thán từ “gọi”, “ơi”, “chi” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu và đậm chất xứ Huế mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu.Tiếng gọi của Thanh Hải “ơi”, “hót chi” nghe sao mà tha thiết, ngọt ngào như con người Huế vốn rất đẹp, rất chân thành đó thôi.
Khung cảnh mùa xuân  xứ Huế có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng. Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu và âm thanh đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống. Mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời làm lòng người say sưa, xốn xang, rộn ràng
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Giọt long lanh là tên gọi chung của tác giả dành cho giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt, lấp lóa, chói ngời. Với bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác. “Hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống, của đất trời, của chim, cũng là sự đồng cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc đời.Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt, niềm tin yêu cuộc sống và khát khao dâng hiến đến hơi thở của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ  màu sắc, âm thanh của sự hồi sinh.
            Nếu bức tranh xuân của Nguyễn Du non xanh như tâm hồn của các cô thiếu nữ Thuý Kiều, Thuý Vân trong buổi du xuân thì bức tranh xuân của Thanh Hải tươi sáng, ân tình, chứa chan cảm xúc, thấm thía lòng người. Tâm hồn họ đều rất thăng hoa, rất thiết tha, nhưng mỗi người lại có một bút pháp nghệ thuật riêng để ghi đậm cái tôi cá nhân trong lòng độc giả. Nếu như Nguyễn Du đã vận dụng khéo léo thể thơ lục bát cuả dân tộc thì Thanh Hải cũng rất mượt mà với thể thơ ngũ ngôn ngân nga như điệu nhạc xứ Huế.
             Nguyễn Du với mười lăm năm lưu lạc còn Thanh Hải đang phải giáp ranh với cái chết nhưng ở họ vẫn nồng cháy tình yêu thiên nhiên, đất trời, Tình cảm ấy đã hoà chung dòng chảy với các tác phẩm khác viết về mùa xuân.

             Đã nhiều năm trôi qua, nhưng khi đọc những dòng thơ trên, lòng người đọc vẫn không khỏi xúc động, rạo rực, mê say. Có lẽ Nguyễn Du cũng như Thanh Hải sẽ còn sống mãi trong trái tim người đọc bởi những vần thơ như thế, bởi tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên, đất trời và con người tha thiết. Bởi chính ngòi bút của họ đã thăng hoa thành những nét vẽ khắc sâu trong hồn ta một mùa xuân bất diệt, vĩnh hằng và truyền vào lòng ta khát vọng được cống hiến, được làm Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời...

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình 6 câu đầu, 8 câu cuối đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích”


      Nguyễn Du là bậc thầy ngôn từ của thơ ca Việt Nam, là ngòi bút thiên tài trong việc sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để nói lên tâm trạng con người,đưa tâm hồn con người hòa vào cảnh vật. Nhưng cũng đồng thời lấy hình ảnh con người soi dọi tâm hồn tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa hai chiều. Vì vậy, mà trong suốt truyện Kiều, mỗi bước chân của Kiều đều được gắn với hình ảnh của thiên nhiên. Trong truyện Kiều nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thật muôn hình vạn trạng, mỗi một bức tranh thiên nhiên lại gắn với một tâm trạng của con người, soi dọi con người, giúp cho nhân vật gửi gắm tâm trạng của mình. Nghệ thuật ấy đã vẽ nên những bức tranh tả cảnh ngụ tình đạt đến tuyệt bút. Người đọc không thể quên được bức tranh hòa quyện tình cảnh trong đoạn “Kiều ở Lầu Ngưng Bích”.Nhất là bức tranh cảnh tình ở 6 câu đầu và 8 câu cuối đoạn trích.
       Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh vật và tâm trạng. Hay nói cách khác đó là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình- một bức tranh tả cảnh ngụ tình đạt đến tuyệt bút. Cảnh không chỉ là bức tranh tâm trạng mà còn là nơi con người có thể giãi bày tâm trạng của mình, trong tình có cảnh, trong cảnh có tình. Đúng như Nguyễn Du từng bày tỏ :
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Trước hết, Nguyễn Du diễn tả nỗi cô đơn của Kiều khi bị giam tại lầu Ngưng Bích. Câu thơ :
“ Trước lầu ngưng bích khóa xuân”
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.”
đã đưa người đọc vào không gian tù hãm nên cảnh vật do đó cũng nhuốm màu tâm trạng.Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều đó. Chữ khóa xuân lấy từ điểm tích Chu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích, nên Đổng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó đã khóa chặt tuổi xuân hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều:
“ Đông phong bất dữ chu lang tiện
Đổng tước xuân tâm tỏa nhị Kiều”
     Qua đó chúng ta nhận thấy đó là không gian tù hãm. Khung cảnh thiên nhiên ở đây được vẽ ra bằng khung cảnh nội tâm nhân vật. Cảnh vắng lặng, tuyệt đối không có một chút âm thanh, một bóng người như càng được cô lập Kiều trong sự cô đơn đến rợp người.  Bởi vậy, dù có cả "vẻ non xa" lẫn "tấm trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược non xa, trăng gần tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh "bốn bề bát ngát" chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:
                                 “Bốn bề bát ngát xa trông  
                            Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”  
       Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Một người bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều, không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:                
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Đó là một khung cảnh thiên nhiên rộng mênh mông, vắng lặng không một bóng người. Cái vắng lặng của thiên nhiên và cái mênh mông của đất trời đã khắc sâu vào trong lòng người cảm giác cô đơn. Trong tâm hồn Thúy Kiều và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương. Chỉ sáu câu thơ, bằng nét bút chấm phá tài hoa, bức tranh thiên nhiên luôn làm nền cho hoạt động nội tâm của Kiều. Cảnh tình như hòa hợp làm một: cảnh buồn, tình buồn, ngổn ngang tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Kiều thể hiện sâu lắng. Qua đó chúng ta thấy được sự thành công của Nguyễn Du trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Từ những nỗi niềm buồn thương người yêu và cha mẹ, Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trong nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
         Nhà thơ đã dựng lên một bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều qua nhiều cung bậc khác nhau. Một mình giữa không gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá! Cảnh vật rợn ngợp bị xé lẻ, chia cắt đẩy nỗi cô đơn của Kiều lên đến đỉnh điểm. Cảnh vật đó được nhìn qua tâm trạng đau đớn, ê chề của nàng. Trong hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp đó, nỗi nhớ nhà lại cồn cào mạnh mẽ.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
        Nhà thơ đã lấy khung cảnh thiên nhiên để làm nền sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Tất cả đều trở nên hoang sơ: “ Cửa bể chiều hôm” - thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Đó là những hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Con thuyền và  những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.
     Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa với một nỗi khao khát. “Buồn trông...” âm điệu lời thơ sao mà buồn và có cái gì thật rã rời! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn cánh hoa trôi nổi, bập bềnh.Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:
                                       "Buồn trông ngọn nước mới xa        
                                      Hoa trôi man mác biết là về đâu!"    
Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Cũng giống như Kiều, một người con gái nhỏ bé, yếu ớt nhưng bị cuộc đời xô đẩy. Nhìn cảnh vật mà Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Nhìn cánh hoa lang thang trôi dạt, nàng càng buồn hơn cho thân phận của mình cũng bèo bọt lênh đênh, vô định, nhỏ nhoi và tội nghiệp không có nơi để về ? Một mình lạc lõng giữa chốn đất khách quê người, không biết đâu là quê nhà -  nơi những người thân ngày ngày ngóng trong, chờ đợi mình. Hình ảnh “hoa trôi man mác” gợi lên một nỗi buồn đau sao mà xót xa thế! Buồn cho đoá hoa xa cành, lìa cội trôi nổi bị sóng nước vùi dập. Buồn cho thân phận Kiều cũng đang bị dòng nước giữ xô đẩy, không biết là đến đâu, về đâu. Hoa lìa cành, hoa sẽ héo, sẽ tàn. Cuộc đời Kiều giờ đây cũng vậy, héo hắt và tàn tạ.
Sau hình ảnh một cửa biển, một cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ, nhưng là nội cỏ dầu dầu:                                                                                      
                                        "Buồn trông nội cỏ dầu dầu 
                                 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".
       Xung quanh nàng, thiên nhiên, cảnh vật nhuốm màu tâm trạng – một tâm trạng đau buồn, thương tiếc cho tuổi thanh xuân tàn úa. Bãi cỏ không còn mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba mà nó “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến cho bức tranh trở nên ảm đạm. Kiều nhìn vào màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi, nhưng càng hy vọng thì càng thất vọng. Kiều lại rơi vào nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn. Cuộc sống vô vị, thê lương của nàng bây giờ không biết sẽ kéo dài triền miên đến khi nào. Cuộc đời của nàng giờ đây không có  chút sức sống nào cả. Vẫn âm điệu thơ thật buồn bởi vần bằng dàn trải, tạo cho ta cảm giác được cái nhìn đã lấp đầy mệt mỏi, chán chường của nàng Kiều trước cảnh vật mênh mông.
Cảnh vật đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn:                                                   
                             ”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,   
                          Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”      
       Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ ngữ gợi âm thanh: “ầm ầm”, “kêu”. Từng ngọn gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm. Cảnh vật dường như cũng đang nhuốm màu hưu quạnh, mang tâm trạng của Kiều, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng dậy sóng. Hình ảnh những đợt sóng cuộn trào, dâng lên, xô đẩy cùng với tiếng gào thét của gió, của sóng vang lên thật hãi hùng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng loạn vô cùng. Thấy “gió cuốn mặt duềnh”, nghe “tiếng sóng kêu”, Kiều cảm thấy sợ hãi vô cùng. Nàng cảm nhận tất cả như sụp đổ, một điều gì đó sắp ập xuống thật khủng khiếp, tai họa rình rập khắp nơi. Kiều chới với như rơi xuống vực thẳm. Những âm thanh dữ dội, ghê sợ như mách bảo chặng đường tiếp theo của nàng Kiều sẽ tràn đầy chông gai, khó khăn.
       Toàn bộ tám câu thơ kết thành một bức tranh thiên nhiên toàn cảnh với mặt biển, chân mây, cánh hoa, nội cỏ, sóng gào, gió cuốn vừa buồn thảm, vừa ghê sợ. Bức tranh thiên nhiên ấy đồng thời mang tâm trạng và hoàn cảnh cô đơn, tâm trạng hãi hùng trước tương lai mờ mịt. Đoạn thơ nói lên hiện tại lẻ loi, đơn độc và báo hiệu ngày mai đầy khủng khiếp của nàng. Qua đó, chúng ta thấy được ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du trong việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng của Thúy Kiều thật đúng với lời khen ngợi: “như máu chảy ở đầu ngọn bút và thấu nghìn đời”.
       Nghệ thuật tả cảnh với những chi tiết được chọn lọc kỹ càng, chấm phá. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng con người khéo léo, sâu sắc, tả cảnh ngụ tình tinh tế, tài tình. Đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích”thể hiện ngòi bút tài năng của nhà thơ Nguyễn Du, một thiên tài đỉnh cao nghệ thuật. Tác giả đã để thiên nhiên nói hộ tâm trạng của con người.
       Những câu thơ lục bát tinh tế, sắc sảo đã trải qua bao năm tháng vẫn làm say đắm lòng người. Nguyễn Du không chỉ tài tình khi chọn được âm điệu thơ, lựa được những từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm trạng nhân vật, nhà thơ còn thông cảm sâu sắc với tâm trạng, hoàn cảnh của Kiều và yêu thương nàng biết bao. Dường như ta nghe được cả sự đồng cảm lẫn tiếng lòng âm vang của Nguyễn Du đối với một  thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bất hạnh từ những câu thơ ấy:Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều.





Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

tình đồng đội gắn bó keo sơn

Hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất” đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí”  của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” “của tác giả Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công về đề tài người lính. Chính Hữu và Phạm Tiến Duật bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp,vượt lên những mất mát, đau thương của con người, đã bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về tình yêu nước, tình đồng đội gắn bó keo sơn:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
….
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.( Đồng chí )
Và
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
…..
       Lại đi, lại đi trời xanh thêm.( Bài thơ  về tiểu đội xe không kính)

Dù khác nhau từ hoàn cảnh, xuất thân cho đến lí tưởng chiến đấu, những người lính trong “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”  vẫn cùng chung một mục tiêu duy nhất: chiến đấu vì hoà bình, độc lập, tự do của tổ quốc. Họ lấy quyết tâm làm nền tảng, tinh thần làm cơ sở ,vững bước đến tương lai trên tình đồng chí. Tình đồng chí là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình đồng chí đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo sơn. Mối tình thiêng liêng sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính vượt lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận để viết lên những bản anh hùng ca tô thắm thêm trang sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc.

Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ lòng dũng cảm, hiên ngang, mà những người lính trong “Đồng chí đã bất chấp  những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn thành nhiệm vụ.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
….
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.( Đồng chí )

Bảy câu thơ ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến chống Pháp buổi đầu. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,… Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng.  Các câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. "Miệng cười buốt giá" hẳn là cười trong buốt giá, vì áo quần không chống được rét, mà cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá, mặc dù trời lạnh hẳn nụ cười cũng khó mà tươi. Cũng có thể là nụ cười coi thường gian khổ. Chi tiết “miệng cười buốt giá” đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thần lạc quan của người chiến sĩ. Rồi đến cái cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu không ồn ào mà thấm thía. Một nửa câu nói về chất keo sơn gắn bó con người : thương nhau, nửa kia là hành động cụ thể : tay nắm lấy bàn tay. Không lời nói hoa mỹ, không lý lẽ, giải trình, chỉ có tình thương yêu giữa những người đồng đội mới là sự liên kết chặt chẽ nhất cho tình đồng chí cách mạng. Họ quên mình đi để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau truyền cho nhau hơi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tới chiều cao: cùng sống chết cho lý tưởng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên. Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy.Hình ảnh những bàn tay nắm lấy nhau chặt chẽ kia nói lên tất cả. Đó là sức mạnh vô địch mà kẻ thù phải khiếp sợ, đó là cái tình người thực tế nhất, đẹp đẽ nhất, đáng quí nhất của quân đội ta. 

        Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ  lái xe Trường Sơn từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
….
Lại đi, lại đi trời xanh thêm. ( Bài thơ  về tiểu đội xe không kính)

Sinh hoạt của người lái xe, cái ăn cái ngủ bình thường của con người, được tóm lược vào trong hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ về chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong một thoáng chốc.Cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khổ nhưng tâm hồn người lính thật vui tươi, lạc quan. Nhưng có cái gì xao xuyến : “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. “Chông chênh” gì thì chông chênh nhưng ý chí chiến đấu, khí phách, nghị lực vẫn vững vàng, kiên định, vượt lên tất cả. Chính mình đồng đội đã tiếp cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phơi phới lạc quan.  Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân :“Lại đi lại đi trời xanh thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa. 
Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng … 

Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống Mỹ đều mang phẩm chất cao đẹp của “anh bộ đội cụ Hồ” thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ nhưng nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tại nên những hình tượng làm xúc động lòng người. Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động.

Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.