Dàn ý chung
A.
Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác
giả (phong cách, sự đóng góp, một chi tiết trong cuộc đời có liên
quan đến sáng tác …) và đôi nét về tác phẩm (hoàn cảnh
ra đời, xuất xứ, vị trí của tác phầm trong toàn bộ sáng tác…)
- Giới thiệu khái quát nội
dung của tác phẩm
- Giới thiệu khái quát nội
dung của đoạn trích (trích dẫn đoạn thơ cần phân tích)
B. Thân bài:
1. Nêu nhận định chung về tác
phẩm, đoạn thơ: Kết cấu, giọng điệu, hình ảnh, … hoặc cảm xúc chung của
toàn tác phẩm.
2. Phân tích đoạn thơ
a. Lần lượt phân tích,
cảm nhận từng ý thơ (Căn cứ vào kết quả tìm ý ở từng câu, từng khổ, liên
hệ so sánh với 1 số bài thơ khác có cùng đề tài để làm rõ hơn bài thơ đang phân
tích)
Ta
có thể sắp xếp theo trình tự sau:
- Nêu ý khái quát (luận điểm): ……
“Trích dẫn thơ”
- Phân tích: Nghệ
thuật – Nội dung
=> Tiểu kết và chuyển ý
b. Đánh giá thành công nghệ thuật đoạn
thơ/ bài thơ
3. Liên hệ – Trình bày những điểm gặp gỡ:
3.1. Liên hệ đoạn thơ hoặc nhân vật
a.
Giới thiệu – Khái quát nội dung đoạn thơ hoặc nhân vật liên hệ:
“Trích
dẫn thơ” (nếu là thơ)
-
Phân tích khái quát:
Nghệ thuật – Nội dung
b. Trình
bày những điểm gặp gỡ:
- Hình ảnh nhân vật.
- Tư tưởng tác phẩm
- Điểm khác biệt
3.2. Liên hệ thực tế (Có thể coi
đây là một đoạn văn nghị luận xã hội lấy vấn đề từ nội dung đoạn thơ cần phân
tích):
- Nêu biểu hiện
- Nêu ý nghĩa
C.Kết bài
- Khẳng định lại toàn bộ giá
trị nghệ thuật và nội dung của 2 bài thơ.
- Liên hệ thực tế - Liên hệ bản
thân.
Bài tham khảo
Đề: Hãy phân tích khổ 4 và 5 trong bài
thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải. Sau đó liên hệ một đoạn thơ của tác
giả khác để thấy điểm gặp gỡ trong tư tưởng của hai nhà thơ Hoặc liên hệ thực tế để thấy được truyền thống yêu và gắn bó với quê hương của
người Việt Nam.
A. Mở bài
Mùa xuân từ lâu đã là đề tài vô tận cho các thi
sĩ. Nhưng hiếm có bài thơ nào viết về mùa xuân lại hay và trong hoàn cảnh đặc
biệt như “mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, nhà thơ của xứ Huế mộng mơ. Bài thơ
“mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh
và chỉ mấy tuần lễ sau khi hoàn thành bài thơ thì nhà thơ đã qua đời. Đây là một
bài thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải đã thể hiện được “tâm nguyện thật
thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.
Thanh Hải, nhà thơ nặng lòng với xứ Huế mộng mơ, những ngày cuối đời lại ước
mong được hóa thân thành một mùa xuân, một mùa xuân nho nhỏ để thỏa nguyện lòng
yêu mến nhân gian:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một
Mùa xuân nho nhỏ
Lặng
lẽ dâng cho đời
Dù
là tuổi hai mươi
Dù
là khi tóc bạc.
B. Thân bài:
1. Nêu nhận định chung về
tác phẩm, đoạn thơ :
Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được Thanh
Hải sáng tác trước khi nhà thơ qua đời một tháng .Trong tâm lí nặng nề, sức khoẻ
và bệnh tật mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao để rồi mang đến cho cuộc
sống một tình yêu, một nỗi niềm thiết tha với quê hương đất nước và cùng theo
đó là ước nguyện chân thành được cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ Quốc
thân yêu. Đoạn thơ bộc lộ ước nguyện được hoà nhập, dâng hiến
cho cuộc đời là những dòng thơ thật hay, thật xúc động.
2. Phân tích, cảm nhận
từng ý thơ
Vốn
là một hồn thơ rộng mở, Thanh Hải luôn khao khát được hòa mình với cuộc sống và
thiên nhiên bất tận. Thanh Hải yêu thơ và say mê làm thơ như một lẽ sống không
bao giờ ngừng. Và chính ông cũng nhận được biết bao cơ hội có thể giãi bày qua
thơ văn. Niềm khát khao dâng hiến cuộc đời được khơi gợi từ những cảm nhận về một
mùa xuân mới, mùa xuân của thiên nhiên đất trời, mùa xuân của cuộc sống lao động
và chiến đấu của dân tộc.
Niềm
khát khao dâng hiến cuộc đời được thể hiện một cách khiêm nhường nhưng rất đỗi
chân thành:
Ta
làm con chim hót
Ta
làm một cành hoa
Ta
nhập vào hoà ca
Một
nốt trầm xao xuyến.
Trong
không khí tưng bừng của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận được một mùa xuân
tươi trẻ, rạo rực trỗi dậy trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa
xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của sự cống hiến và hòa nhập. Để bày tỏ lẽ
sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người
đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp “ta”- “hoa”-
“ca”. Nhịp thơ dồn dập và điệp từ “ta làm” diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến
của nhà thơ, ước nguyện chân thành, thiết tha. Động từ “làm”- “nhập” ở
vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ - hoá thân để sống đẹp, sống có
ích. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống để
bày tỏ ước nguyện: con chim, một cành hoa, một nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi làm
một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ!Còn gì vui hơn khi được
làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời! Các hình ảnh bông hoa,
tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi
đẹp, giờ lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở
ra, đó là mong muốn được sống có ích, sống làm đẹp cho đời là lẽ thường tình.
Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá thành cái “ta”. Có
cả cái riêng và chung trong cái “ta” ấy. Với cách sử dụng đại từ này, nhà thơ
đã khẳng định giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung. Hình ảnh
“nốt trầm”và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấy ước muốn tha thiết, chân
thành của mình.“Nốt trầm” là nốt nhạc tạo nên sự lắng đọng sâu xa trong một bản
nhạc. Trong cái không khí tưng bừng của ngày hội mùa xuân, nhà thơ muốn làm một
nốt nhạc trầm để góp vào khúc ca xuân của dân tộc một chút vấn vương, xao xuyến.
Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là“một nốt
trầm xao xuyến” để góp vào bản hoà ca chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ
bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất nước. Đọc đoạn
thơ, ta xúc động trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của
nhiều người.
Từ
khát vọng hòa nhập, nhà thơ thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những
câu thơ sâu lắng tiếp theo:
Một Mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc. “
Cách
sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác,tinh tế và gợi cảm. Làm
cành hoa,làm con chim,làm nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng
hiến cho cuộc đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc
đời đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp.Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy
đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp
cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ
chân thành, khiêm nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống để
cống hiến đem tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
Không
khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến.Ý thơ thể hiện một ước
nguyện, một khát vọng, một mục đích sống. Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi
về với thế giới “người hiền” cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”. Lời ước
nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ “dù là” nhắc lại hai lần như
tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai
mươi tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già,bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời,
sống làm đẹp cho đất nước. Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển
tải bằng những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết
tha. Chỉ “lặng lẽ”mà cháy bỏng một nỗi khát khao được dâng những gì đẹp đẽ nhất
của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh
niên vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến
tranh, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều
đó càng làm tăng thêm giá trị tư tưởng của bài thơ. Vì vậy, mà sức lan tỏa của
nó thật lớn.
Bằng
thể thơ năm chữ, giọng điệu chân thành, tha thiết phù hợp với tâm trạng cảm
xúc, cùng với hình ảnh ẩn dụ… Thanh Hải đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp
đáng quý: mỗi người hãy sống có khát vọng, sống có cống hiến, dù chỉ là phần nhỏ
bé của mình vào công cuộc bảo vệ, giữ gìn và dựng xây đất nước. Đọc đoạn thơ,
bài thơ ta càng yêu hơn, trân trọng hơn lẽ sống mà Thanh Hải để lại, ta càng phải
tự nhủ: Hãy sống đẹp – sống như Thanh Hải đã sống.
3. Liên hệ
– Trình bày những điểm gặp gỡ:
a. Liên hệ –
Trình bày những điểm gặp gỡ với 1 khổ thơ:
Biết
lặng lẽ dâng đời,biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã
viết:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải
xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng
mình”.
Nhà
thơ mượn hình ảnh con chim, chiếc lá để thể hiện quy luật của thiên nhiên: con
chim dâng tặng cho đời tiếng hót, chiếc lá dâng tặng cho đời màu xanh. Đó là những
gì tinh tuý nhất để làm cho cuộc sống thêm hương sắc và thêm sức sống. Từ quy
luật của tự nhiên tác giả liên tưởng đến quy luật của cuộc sống con người:
Đó là quy luật vay-trả, nhận và cho. Suy rộng ra con người sống không phải là để
hưởng thụ vật chất hay tinh thần của thiên nhiên, của cuộc sống mà phải biết cống
hiến, biết làm đẹp cho xã hội ngày càng phát triển. Đó là cách sống có ý
nghĩa.Cách lập luận “phải…phải”, “lẽ nào…” là lời khẳng định mang tính quy luật.
Gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một phần sức nhỏ bé của
mình để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân.Thế mới biết, cuộc đời
của con người thì có hạn những những giá trị tinh thần mà con người để lại cho
đời sau thì có giá trị vĩnh hằng.
Hai
nhà thơ đã gặp nhau ở quan niệm về lẽ sống: Không sống hưởng thụ, ích kỉ, phải
biết cống hiến, vị tha. Đây là quan điểm sống đẹp, cao thượng và đáng trân trọng.Họ
đều lựa chọn những hình ảnh, những sự vật bình dị nhưng có ích để thể hiện khát
vọng của mình. Họ đều là những con người sống có lí tưởng, có niềm tin vào
tương lai đất nước. Lời thơ của cả hai tác giả đề thiết tha, cảm xúc chân
thành. Đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ của hai nhà thơ,bản thân chúng
ta phải chuẩn bị cho mình những phẩm chất, trí tuệ để xây dựng và phát triển đất
nước.
b. Liên hệ
thực tế:
Quê
hương- Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự
hào nồng thắm! Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các
dân tộc trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song với dân tộc
Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm
của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt
Nam. Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nan là lịch sử đất tranh giành lại
và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm cộng
lại lên tới trên 12 thế kỷ!) Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào
tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm
nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ
thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đây.
Lịch
sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho những khẳng định trên. Từ thế kỷ thứ III
tr. CN., dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn phong kiến
phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 tr. CN. đến năm 938, nước ta tiếp tục
nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc (tổng cộng 1117 năm). Đây là thời kỳ đầy máu
và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường, sự vươn lên
thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp
sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan
quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên - Mông, Lê Lợi đánh bại quân
Minh, Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh... Rồi đến những thắng lợi vang dội của
các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc
đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả
thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng
tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất
nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã tự
nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh
nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt
trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Có những bà mẹ có tới chín người
con trai, một người con rể và cả chồng là liệt sĩ! Đây là sự hy sinh to lớn được
thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu thôi cũng đã
quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước không phải là một triết lý đế án
đàm, nó là kim chỉ nam cho hành động, đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy dân
tộc ta tiến lên.
Ngày
nay, Việt Nam bước vào hội nhập trong điều kiện đất nước đã hoàn toàn giải
phóng, nhân dân được sống trong hoà bình. Nỗi nhục mất nước đã được rửa, nhưng
nỗi nhục nghèo đói thì vẫn còn đó. Trong bối cảnh toàn cấu hoá hiện nay, tinh
thần yêu nước truyền thống được kế thừa và phát huy một cách cao độ hơn bao giờ
hết. Mọi người luôn thể hiện niềm tự hào dân tộc, có ý thức tôn trọng, giữ gìn
và phát huy những giá tri vật chất cũng như tinh thần mà dân tộc ta đã tạo dựng
được từ bao đời nay. Thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó và góp
phần làm thất bại mọi âm mưu đen tối nhằm chống phá nước ta của các thế lực thù
địch. Mọi công dân cố gắng phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện, lao động để
làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Lớp trẻ ngày nay mạnh dạn
xông pha nơi trận tuyến kinh tế và tri thức, cố gắng vượt qua những khó khăn thử
thách để chiếm lĩnh những đỉnh cao mới với tinh thẩn “đừng hỏi Tổ quốc đã làm
gì cho ta" , “ta đã làm gì Cho Tổ quốc thân yêu”. Dân giàu thì nước mới mạnh,
vì vậy mà mỗi người đem hết tài năng và
trí tuệ của mình để làm giàu một cách chính đáng cho bản thân và cho xã hội. Mỗi
cá nhân, dù ở cương vị nào, cũng phải cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm
vụ của mình. phấn đấu góp phần đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
C. Kết bài
a. Nếu liên hệ với 1 khổ thơ:
Hai
đoạn thơ như gắn kết hai tâm hồn của những con người luôn yêu đời, yêu người. Cả
hai nhà thơ đã đi vào cõi vô định xa xôi nhưng những vần thơ của họ vẫn mãi ở lại
để tô điểm cho cuộc đời. Có thể nói, những vần thơ trong trẻo, khơi đậm triết
lí trong các khổ thơ trên là lời tâm sự, giãi bày của thi nhân bộc lộ đầy đủ
tình yêu cuộc đời, yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước. Đọc hai đoạn thơ, ta
hiểu được, thêm yêu và trận trọng hơn lẽ sống mà các tác giả để lại, và tự nhủ
hãy sống đẹp như các nhà thơ đã sống.
b. Nếu liên hệ thực tế:
Đọc
thơ Thanh Hải, ta hiểu được, thêm yêu và trận trọng hơn lẽ sống mà các tác giả
để lại, và tự nhủ hãy sống đẹp như nhà thơ đã sống. Có thể nói, những vần thơ
trong trẻo, khơi đậm triết lí trong các khổ thơ trên là lời tâm sự, giãi bày của
thi nhân bộc lộ đầy đủ tình yêu cuộc đời, yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.
Tự hào dân tộc chân chính là phải biết cống hiến phát huy năng lực xây dựng đất
nước giàu đẹp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Làm được
như vậy thanh niên chúng ta mới xứng đáng là cháu con của dân tộc Việt Nam anh
hùng.