Đề : Tưởng
tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai trong truyện “Làng “ của Kim Lân
Thật đúng như nhà văn
I-li-a Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng
yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” là hình ảnh đẹp của
những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp trước đây (1946-1954). Ông Hai là hình tượng người nông dân
trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm chân thực và thắm đượm tình
yêu quê hương, đất nước.Và từ khi được học tác phẩm “Làng” tôi thường mơ ước được gặp ông để tìm hiểu rõ hơn điều gì đã
xảy ra với ông.Điều đó đã thành sự thật cách nay chưa lâu. Tôi không thể quên
được giây phút phút đó.
Không gian mờ ảo đưa
tôi đi.Khi tôi mở mắt ra thì thấy mình ở trong một ngôi làng trung du nhỏ. Cái làng này chỉ có chừng vài mươi nóc
nhà. Tôi mơ màng đi trên con đường đất thẳng giữa làng. Tôi thấy,
những tốp người đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa sù sì, cành lá rườm rà
ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng.Tiếng quạt,
tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói râm ran một góc đường.
Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp
loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…. Tôi giật mình.Tôi thấy
cảnh này vừa lạ vừa quen.Hình như tôi đã gặp đâu đó rồi thì phải nhưng tôi
không nhớ được.Bỗng tôi nhìn thấy ông
lão ngồi trong một cái quán gần đấy. Hút thuốc lào, uống chè tươi nóng,
ông chóp chép cái miệng như có bao nhiêu
ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tôi mạnh dạn đi lại gần.Bây giờ tôi mới
nhìn rõ đó là ông lão người mảnh khảnh, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Tôi
đoán ông độ trên dưới sáu mươi.
- Chào ông ? Ông có biết đây là đâu không ?
Tôi hỏi.
- Cháu không biết mình ở nơi tản cư à! Bố mẹ
cháu đâu ?
- Cháu không biết tại
sao cháu ở đây ? Ông giúp cháu về nhà nhé ?
Ông Hai đặt bát nước
xuống chõng nói : Thôi cháu theo ông về nhà , để ông báo chính quyền tìm người
nhà cho cháu. Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng một tiếng, vươn
vai nói to: về nào…
Tôi theo ông về
nhà.Trên đường đi ông giới thiệu mình là người làng chợ Dầu và mọi người thường
gọi tôi là ông Hai Thu.Lúc đó tôi mới nhận ra mình đang nói chuyện với người
mình mơ gặp bấy lâu.Tôi đang bâng khuâng
không biết điều này thưc hay mơ đây thì đã về tới nhà.Vào nhà ông rót nước và hỏi
chuyện tôi.Ông hỏi tôi từ đâu tới, vì sao lạc cha mẹ…Tôi chỉ trả lời ậm ờ cho
qua chuyện. Tôi đánh trống lảng hỏi sang chuyện khác :
- Cháu nghe nói làng chợ Dầu anh hùng lắm
! Ông có thể kể cho cháu nghe về nó không ?
Như bắt được mạch,
ông Hai kể trong say sưa . Ông nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ
thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe
làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi
phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh.Đường trong làng toàn lát
đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến
gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có
lấy một hạt thóc đất.
Dù đã đọc những điều
này trong truyện nhưng tôi vẫn cảm thấy
xúc động.Tôi nhìn ông Hai say sưa kể tiếp : Kháng chiến bùng nổ ông muốn ở lại
làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến .Nhưng vì hoàn cảnh gia đình
nên ông phải cùng gia đình đi tản cư .Ở nơi tản cư ông rất nhớ làng và thường
có hay khoe về làng mình .Hôm nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức
kháng chiến . Ruột gan ông cứ múa hết cả lên khi nghe được bao nhiêu tin hay -
toàn tin quân ta giết được địch.
Nói đến đây ông dừng
lại,trầm ngâm suy nghĩ.Tôi vội hỏi :
- Chuyện gì xảy ra vậy
ông ? Sao ông dừng lại không kể tiếp ?
Ông Hai nhìn tôi với
cặp mắt đầy suy tư
- Từ từ chứ ! Chờ ông uống miếng nước
đã. Nói xong ông lấy ly nước uống một ngụm.Uống xong ông kể tiếp : Hốm ấy đang
trong tâm trạng náo nức thì ông nghe được tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm
Việt gian. Lúc đó cổ họng ông nghẹn ắng lại , da mặt tê rân rân. Ông lặng đi ,tưởng
như không thở được. Một lúc lâu ông mới dặn è è , nuốt một cái gì vướng ở cổ,
ông hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn . Ông vờ
vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà.
Nghe ông kể tôi có thể cảm nhận được
tâm trang ông lúc đó. Có gì đau đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người
đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo
Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, Niềm tự hào bao lâu bỗng
chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy
đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông Hai vẫn đang kể :
- Về đến nhà , ông nằm
vật ra giường nhìn lũ con mà thấy tủi thân , nước mắt ông cứ ràn ra . Chúng nó
cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi
đấy ư ? Ông ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi ông tự kiểm điểm
trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước , yêu kháng chiến chẳng
nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy ? Nhưng không có lửa làm sao có khói . Ông
cảm thấy tủi nhục. Chiều hôm ấy vợ ông về cũng có vẻ khác . Trong nhà có cái sự
im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ ông mới hỏi ông về cái tin ấy. Ông
im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. Ba bốn ngày hôm sau ông không dám bước
chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà trật trội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào ông
cũng nơm nớp lo sợ , hễ nghe đến chuyện ấy là ông lại giật mình. Ông căm ghét bọn
phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới
cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy
chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”,
ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Trước tình
cảnh ấy, ông bế tắc nhưng ông nhất định
không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể
đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông.Trong tâm trạng
đau đớn tủi hờn , ông tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của
ông với đi phần nào .
Tôi lặng đi trong xúc
động.Thật thương cho ông Hai. Không hiểu sao nước mắt đã nhòe trên mặt tôi .Ông
Hai lấy tay quệt nước mắt cho tôi cười
nói : Coi cháu kìa ! Mau nước mắt quá ! Nghe ông nói tôi chỉ biết cười ngượng.Vội
hỏi cho đỡ ngượng :
- Vậy tin làng chơ dầu theo tây được cải
chính khi nào ?
Nghe tôi hỏi ông Hai
ngẩn người ra .Tôi biết mình đã lỡ lời.Nhưng một thoáng im lặng trôi qua, ông
nói với giọng xúc động :
- Một hôm khoảng ba giờ chiều, có người đàn
ông đến nhà ông chơi . Ông ấy rủ ông đi theo ông ấy, đến sẩm tối ông mới về .
Lúc ây ông rất vui .Đến bực cửa ông đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà mình rồi,
ông chủ tịch làng ông vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng ông
theo Tây làm Việt gian là sai. Nỗi vui mừng của ông thật vô bờ bến. Ông hào
phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người
trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức.Cứ thế
ông lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy ông còn sang gian bác Thứ nói chuyện về
làng của mình.
Nói xong ông đưa tay quyệt nước mắt đã rơi khi nhắc đến kỉ
niệm đó.Tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé khi nghĩ đến ông. Ông Hai đã gắn tình yêu
đắm say làng mạc của mình với tình yêu đất nước.Điề này làm nên con người vĩ đại
trong ông.Cũng chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn
một lòng, một dạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ.Đang trầm ngâm với suy nghĩ của
mình tôi nghe tiếng gọi
- Ông Hai ơi ngoài ủy ban có tin về
làng chợ Dầu kìa ?
Nghe tiếng gọi ông
Hai nhanh chóng bảo tôi nghỉ ngơi còn
ông sẽ chay ra ủy ban báo cáo về trường hợp của tôi.Nhìn dáng tất bật của ông
mà tôi trào dâng niềm yêu thương.
Reng ! Reng ! Tiếng
chuông báo thức vang lên. Giờ tôi mới nhận ra minh đã có một giấc mơ thật đẹp.
Ông Hai đã giúp hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng
chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn
xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Đề : Tưởng tượng gặp người cháu trong “ Bếp lửa”
Trong cuộc đời ,ai cũng có cho riêng mình
những kỉ niệm thời ấu thơ hồn nhiên trong sáng. Những kỉ niệm ấy là thiêng
liêng và thân thiết nhất . Nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt
hành trình dài và rộng của cuộc đời . Tôi nhận thức sâu sắc điều đó nhờ văn bản
“ Bếp lửa” của Bằng Việt . Hình ảnh người bà, bếp lửa và tình bà cháu in đậm trong tâm trí tôi . Và
sự ám ảnh đó theo tôi vào giấc ngủ …
Thời gian trôi , tôi là một sinh viên ngành
luật tại Maxcơva .Tôi có người bạn rất thân thiết tên là Việt Bằng.Việt Bằng rất
nổi tiếng trong giới sinh viên du học tại Liên Xô. Anh làm thơ rất hay.Tôi đã đọc
và rất thích bài thơ “ Bếp lửa” của anh.
Nhân dịp tết cổ truyền ở quê nhà, nhóm sinh
viên xa nhà chúng tôi tổ chức nấu bánh chưng
, bánh tét . Bên ánh lửa bập bùng tôi được nghe câu chuyện về tuổi thơ của
anh Việt Bằng . Anh kể trong nỗi xúc động về tuổi thơ và nỗi nhớ nhung về người
bà giấu yêu của mình.
Bằng giọng chậm rãi
bùi ngùi , đôi mắt như đắm chìm trong quá khứ ,Anh tâm sự :
- Các bạn ơi ! Thời
gian trôi qua hơn hai mươi năm rồi . nhưng mỗi lần nhìn bếp lửa tôi lại nhớ về
bếp lửa , quê hương ,bếp lửa tuổi thơ .hồi ức bếp lửa làm bớt cái lạnh lẽo của
mùa đông xa quê , nỗi nhớ quê ,cha mẹ . Ở trời Tây này, tuyết thường rơi trắng
xoá. cái lạnh ở nơi đây làm tôi liên tưởng đến bếp lửa của quê nhà chờn vờn
trong sương sớm. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi trên vách bếp. Bếp lửa
luôn vương vấn hình ảnh bà nội tôi tần tảo sớm hôm . Dáng bà cong lưng thổi bếp ,thổi mãi cho đến khi bếp
cháy và tỏa luồng hơi ấm nồng nàn . Hơi ấm của tình thương, của niềm tin và hi
vọng . Ôi hình ảnh bếp lửa vẫn lung linh trong kí ức của dù trải qua bao mưa nắng
thời gian. Tôi nghĩ rằng chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là ấn
tượng thiêng liêng mà tôi không bao giờ quên được.
Nói đến đây anh đừng
lại và chìm trong suy tư. Tôi không muốn phá vỡ mạch suy nghĩ của anh nhưng trí
tò mò của tôi đã thắng. tôi vội hỏi:
- Hồi nhỏ anh sống với
bà à? Chắc có nhiều kỉ niệm lắm ?
- Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà
nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.Hồi quê hương
tôi khổ lắm , chiến tranh mà ! Năm 1945 cả nước đang lâm vào cảnh đói khủng khiếp
khiến hơn hai triệu người chết ,gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Bố tôi còn
con ngựa để đánh là may mắn lắm . Cả xã hội đói mòn đói mỏi . Trong những năm
đói khổ đó , tôi và bà gắn bó với nhau . Bà không bao giờ để tôi đói hay thiếu
bữa ăn nào . Bà mót từng củ khoai , lượm từng củ sắn để có cái ăn cho tôi
. Bà như bà tiên, xua tan đi cái không khí ghê rợn đầy tử khí của năm đó . Tôi
nhớ mãi cái ” mùi khói “ .Hơn hai mươi năm rồi , khói vẫn làm cay mắt tôi. Cái
“ cay “ của những kỉ niêm đói khổ,
càng “cay “ tôi càng nhớ bà và thương bà
hơn.
Tôi lặng đi , không
dám cất lời hỏi tiếp . Thời gian trôi
trong thinh lặng . Một lúc sau , đè nén xúc động , Việt Bằng kể tiếp: Cả quãng
đời tuổi thơ tôi sống cùng bà. Trong tám năm ấy , đất nước có chiến tranh , hai
bà cháu phải đi tản cư còn bố mẹ tôi thì đi công tác . Chỉ có tôi và bà , bà phải
xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu . Thời gian ấy , tuy đói khổ với tôi lại
là niềm hạnh phúc vô bờ . Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều
cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho chúng tôi nghe những ngày lưu lạc ở Huế. Trong khói
bếp , chập chờn mở ảo , bà như bà tiên hiện ra từ trong những câu chuyện bà kể.
Đối với tôi , bà là cha , là mẹ. Trong những năm sống, cùng bà , bà chăm lo tôi
từng miếng ăn , từng giấc ngủ và bà còn là người thầy đầu tiên của tôi . Tôi lớn
lên trong sự chăm sóc , dạy bảo của bà.Bà dạy tôi cách sống , cách làm người và
những bài học đó đi theo tôi suốt cuộc đời . Là hành trang tôi luôn mang theo
bên người . Bây giờ nghĩ lại, tôi đi xa rồi bà ở với ai , ai cùng bà nhóm lửa ,
ai cùng bà chia sẻ những ngày ở Huế ?. Mỗi lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng
tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn được ở gần bà, sợ phải xa bà. Đang
kể bỗng Việt Bằng dừng lại , nhìn mông lung rồi đột ngột cất tiếng ngâm thơ :
“ Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa “ .
Tôi lặng người và cảm
thông cho nỗi lòng của anh , cảm thông với
nỗi nhớ bà của đứa cháu nơi xứ người .Tim tôi thổn thức , lòng dâng trào
cảm xúc . Hình như nơi quê nhà tôi cũng có ngươi bà đang mong chờ tôi về. Đang
miên man trong suy nghĩ của mình, tôi nghe tiếng Việt Bằng kể tiếp :
- Chiến tranh khốc liệt
vô cùng. Nó gây ra bao đau khổ . Bà cháu tôi cũng là một nạn nhân của chiến
tranh . Gia đình tôi bị chia cắt , bố mẹ tôi công tác bận không về, nhà cửa bị
đốt trụi … Nhưng cuộc sống càng khó khăn , cảnh ngộ càng ngặt nghèo thì bà càng
thêm vững vàng . Nhớ năm đó túp lều tranh của bà cháu tôi bị đốt .Không còn chốn
nương thân . Bà dẫn dắt tôi qua hết mọi khó khăn . Bà cấm tôi kể này ,kể nọ
trong bức thư viết cho bố . Bà không muốn
bố tôi đang bận việc nước , lo lắng cho nhà . Lời dặn của bà giản dị nhưng chứa
biết bao tình cảm . Ôi, bà ơi ! hồi ấy đầu óc non nớt của cháu đâu thấu hiểu tấm
lòng hi sinh vì nước của bà . Tấm lòng của bà cao cả chan chứa yêu thương .
Kể đến đây đôi mắt Việt
Bằng đã nhòa loẹt . Tôi cũng bồi hồi xúc động lẫn khâm phục ngươi phụ nữ anh
hùng.
-Bà của anh thật tuyệt
vời ! Bây giờ bà của anh còn không ? Làm gì?
Đè nén xúc động , Việt Bằng cười rất tươi , vội
vã trả lời :
-Còn … Bà tôi rất còn
khỏe và vẫn dậy sớm nhóm bếp nấu nước , nấu cơm . Nhắc đến bà , tôi không quên
được hình ảnh của bà với bếp. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cỏi
luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhóm lên toả hơi ấm khắp
căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình của thời thơ dại.
Bà và bếp lửa , hai hình ảnh ấy thực sự đã ghi dấu ấn lên cuộc đời tôi. Bây giờ
cuộc sống đã thay đổi qua nhiều , bếp lửa truyền thống đã không còn hữu dụng nữa
. Nhưng tôi mãi không bao giờ quên được
hai hình ảnh đó. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa
gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng
là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho tôi và mọi
người. Bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa,
truyền niềm tin , sự sống cho tôi. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ
đẹp tần tảo , nhẫn nại và đầy yêu thương. Giờ đây tôi đã trưởng thành. Tôi có
những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới. Tổ quốc đã chấp cánh cho tôi bay
vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học,nhưng tôi không thể nào quên
hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều
ở nơi quê nhà.
Lắng nghe Việt Bằng
thộ lộ tâm sự , tôi bồi hồi xúc động về hình ảnh người bà thiêng liêng cao cả.
Để đất nước được hòa bình , những người bà , người mẹ đã âm thầm hi sinh . Trong tôi dâng tràn lên một
niềm tin cao đẹp đất nước ngày càng phát triển khi còn những người mẹ , người
bà như thế . Câu truyện của Việt Bằng gợi tôi nhớ về quê hương , gia đình và
càng thấm thía hơn tình cảm gia đình , ông bà , cha mẹ . Quê hương là bến bờ hạnh
phúc sưởi ấm tâm hồn những đứa con xa xứ như chúng tôi
Qúa nửa đêm , giờ đã sang giờ giao thừa ở
Việt Nam ,bếp lửa đã tàn , chúng tôi chia
nhau về phòng để kịp gởi lời chúc xuân tốt đẹp về Việt Nam . Viết xong lời
chúc , Tôi lên giường đi ngủ .
- Reng ! Reng ! Reng !
Tiếng chuông báo thức
vang lên . Giời tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp . Nhưng sao tôi
vẫn cảm nhận được cái lạnh của nước Nga.Cái lạnh nhưng lại ấm áp tình cảm gia
đình. Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ
mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình
dài rộng của cuộc đời phải không các bạn ? Tình yêu thương , lòng biết ơn trong
gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước, con người. Tôi thầm
hứa mình phải biết yêu quý và bảo vệ hạnh phúc mình đang có.
Đề : Tưởng tượng gặp anh thanh niên
Sapa đẹp nổi tiếng,
tôi đã nghe từ lâu và luôn ước mong được một lần đặt chân đến đó.Niềm mơ ước đó
càng trở lên mãnh liệt hơn khi tôi được học truyện ngắn “ Lặng lẽ Sapa”.Niềm mơ
ước đó đã theo tôi vào giấc ngủ.
Giật nảy người, tôi
thấy mình đang ở trên một chiếc xe buýt.Ngó ra ngoài cửa sổ tôi thấy chiếc xe
khách đang chạy chầm chậm trên một con
đường đèo cheo leo uốn lượn quanh co.Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Khung cảnh
trước mắt bỗng hiện ra với vẻ đẹp kì lạ. Tôi thấy những cây thông chỉ cao quá đầu,rung
tít trong nắng.Nắng len cháy đốt rừng cây. Mây bị nắng xua cuộn tròn lại từng cục,
lăn trên các vòm lá ướt sương,rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe. Cảnh sao
xa lạ quá.
- Chỉ vài cây số nữa là tới Sapa.
Đang mơ màng tôi bỗng
nghe bác lái xe nói.Tôi giật mình, háo hức , tò mò đưa mắt nhìn ra xa lặng lẽ.
Tôi đang ở Sapa sao ? Thật hay mơ ? Tôi véo vào mặt mình.Đau quá ! Tôi đang ở
Sapa thật.Nhưng ngay lúc đó xe bỗng phanh kít lại. Khách trên xe xôn xao.Bác lái xe bảo là dừng xe lại một lúc
để lấy nước và để mọi người nghỉ ngơi ăn lót dạ.Tôi xuống xe để hưởng thức vẻ đẹp
của Sapa. Phải công nhận Sapa đẹp thật. Sapa quá đẹp! Khách đi xe bây giờ đã xuống
đất tất cả. Kẻ đang vươn vai, người ngồi bệt xuống ven đường giở thức ăn mang
theo ra.Đưa mắt nhìn ngôi nhà nhỏ trên đỉnh đèo ẩn trong mây. Tôi tò mò đi
lên.Lên tới nơi ,tôi phát hiện ra căn nhà thật đẹp.Căn nhà nhỏ được bao quanh bởi
một vườn hoa nở rộ với rất nhiều loài hoa. Trong mây mù ngang tầm với cầu vồng
kia,hoa dơn, hoa thược dược …vàng, đỏ, tím, vàng … rực rỡ.Ở giữa vườn có một
cháng trai đang chăm sóc hoa.
Nhìn thấy tôi anh
thanh niên mỉm cười đi tới chỗ tôi đứng.Anh quệt vội giọt mồ hôi trên sống mũi hỏi nhỏ :
- Em từ dưới xuôi lên à ! Vào nhà chơi
đi em.
Nhìn nụ cười thân thiện
của anh tôi cảm thấy rất ấm áp.Lúc này tôi mới nhìn kĩ anh .Anh khoảng hai bảy
hai tám gì đó.Dáng người nhỏ bé , nét mắt rạng rỡ. Ánh mắt luôn toát lên vẻ tự
tin.Tôi theo anh vào nhà.
- Anh chỉ sống một mình thôi à ? Nhìn
xung quanh nhà tôi hỏi.
- Ừ ! Gia đình anh ở dưới thị xã , còn
anh ở trên đây để công tác.
Anh vừa nói vừa pha
trà, ấm trà nóng thoang thoảng vừa ấm áp lại vừa mát mẻ.Anh rót vào một tách nhỏ
rồi đem đến cho tôi.
- Cho em xin ạ ! Anh
cứ để em tự nhiên.
- Thế em lên đây có
việc gì ?
- Em theo cha lên đây
thăm bạn ! Tôi trả lời đại vì chính tôi cũng không biết tại sao tôi ở đây.
- Lên Sapa cũng thú vị
lắm em ạ. Nhưng cũng có cái buồn tẻ , lạnh lẽo có khi làm cho con người ta cô
đơn. Quả thật , anh cảm thấy rất buồn nhất là lúc lần đầu tiên lên công tác ở đỉnh
Yên Sơn.
Anh nhíu đôi mày lại
như đang suy tư vào một điều gì đó.Không khí thật yên tĩnh. Thỉnh thoảng có làn
gió nhẹ thoảng qua đem theo mùi hoa lẫn mùi cây cỏ, mùi đất của Sapa. Một chú
chim cất tiếng hót.Nó đậu trên cửa sổ. Lúc này trong đầu tôi vang lên câu nói của
bác lái xe trước khi mọi người rời xe : “ Đây là đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn
sáu trăm mét. Ở đây có một trong những người cô độc nhất thế gian. Anh ta làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Cách đây bốn năm, có hôm tôi cũng đang
đi thế này chợt thấy một khúc thân cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh
thanh niên ở đâu chạy đến, hè với tôi và khách đi xe đẩy khúc cây ra một bên
cho xe đi. Hỏi ở đây mà ai đẩy cây ra giữa đường thế này, anh chỉ đỏ mặt. Thì
ra anh ta mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cây cỏ và
mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp
chúng tôi, nhìn trông và nói chuyện một lát. Nhà anh ta trên cái bậc cấp
kia.”Lúc này tôi mới nhận ra mình đang nói chuyện với “Anh thanh niên” trong lặng lẽ Sapa.Thật kinh ngạc.Tôi cười
tinh nghịch cười hỏi :
- Anh có gặp lại bác
họa sĩ và cô kĩ sư trẻ từng tới đây thăm anh lần trước không ?
Anh ngờ ngợ nhìn
tôi.Tôi vội nói :” Em từng được gặp bác họa sĩ trong một buổi triển lãm tranh
và bác có kể chuyện của anh.Em đã xem bức tranh vẽ anh rồi.Nó đẹp lắm.Bác nói
anh rất “thèm người”.
Anh nhìn tôi,cười vui
vẻ :
- Đúng là anh thèm
người mà ai chẳng thèm người.Đúng không em. Nhất là khi công việc của anh cũng
quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn này thôi. Anh ở đây có nhiệm vụ đo gió,
đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết
hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Anh lấy những con số, mỗi ngày
báo về “nhà” bằng máy bộ đàm: bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ
sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính
xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, rét lắm. Ở đây
có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn
đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là
không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực
mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng
khúc, mà gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…
Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không
thể nào ngủ lại được. Vì vậy anh thèm
nghe chuyện dưới xuôi lắm.
Tôi lặng đi, trầm ngâm suy nghĩ chắc anh phải
là người yêu nghề và gắn bó với mảnh đất này lắm. Tôi cảm nhận sâu sắc tinh thần
trách nhiệm cao với công việc .niềm say mê lao động của anh.Từ giã cuộc sống đô
thị, nơi xa hoa, lộng lẫy, anh tình nguyện trở về quê hương - mảnh đất Sa Pa,
lên đỉnh Yên Sơn lạnh giá làm việc khiến chúng ta ai cũng trân trọng và cảm phục
. Anh - một con người vô danh nhưng thực là một con người với mọi ý nghĩa tốt đẹp
của danh từ ấy, bởi anh đã sống với ý thức trách nhiệm đầy đủ của một con người.Như
để đáp lại suy nghĩ thầm kín của tôi,anh nói tiếp :
- Nhưng không hẳn
Sapa buồn và lặng lẽ thế đâu em ạ! Khi ta
làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi
việc của anh gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của
anh gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, anh buồn đến chết mất. Anh rất vui vì tìm
được thú vui,sự say mê trong công việc,hiểu được trách nhiệm của mình đối với
quê hương.Mọi vật ở đây đều là bạn của anh.Chúng gắn bó với anh suốt mấy năm trời.
- Sapa đã đem lại cho em sự ngạc nhiên không chỉ bởi
vẻ đẹp của nó mà còn bởi ...
Vừa nói tôi vừa đi đến
bên giá sách. Chưa kịp nói hết, anh đã tiếp lời :
- Anh không ngờ bác họa
sĩ lại vẽ anh. Anh làm ở đây có là gì so với người khác ....Em có biết có nhiều
người nhận công tác ở đây còn sớm hơn anh rất nhiều như Bác kĩ sư su hào ở Sapa
đó.
Anh dừng lại đôi chút
,giọng lại buồn buồn :
- Không biết giờ bác
họa sĩ ở đâu.Lâu lắm rồi anh không gặp lại bác nhất là cô kĩ sư.
Tôi thông cảm với nỗi
niềm của anh nên không dám nói thêm.Tôi chợt nhớ đến một chi tiết trong truyện
tôi đã đọc.
- Anh à ! Anh đã phát
hiện ra đám mây khô và góp phần vào thành công trong mặt trận Cầu Hàm Rồng phải không ạ ?
Khuôn mặt anh rạng rỡ
hẳn lên.
- Đúng vậy.Anh đã
phát hiện ra đám mây khô báo cho bộ đội ta bắn trúng máy bay Mĩ. Đối với anh thật
là đột ngột, không ngờ lại là như thế. Từ hôm ấy anh sống thật hạnh phúc
Bỗng có tiếng còi xe
vang lên.Tôi đành phải chia tay anh.Chỉ trò chuyện với anh ít phút thôi mà tôi
cảm thấy như người bạn lâu lắm rồi. Anh tiễn tôi ra ngoài cửa .
- Em chào anh em đi .
- Ừ! Thôi đi nhanh đi
kẻo ba mong, sau này có dịp lại lên đây chơi với anh nhé.
Tôi theo bậc cấp bước xuống đồi, đến mặt đường
nhìn lên, không thấy anh đứng đấy nữa. Anh ta đã vào trong nhà. Lúc bấy giờ, nắng
đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Tôi lững
thững đi về phía chiếc xe đỗ, im lặng nghĩ suy:
Anh chính là tấm gương tiêu biểu
cho thế hệ trẻ Việt Nam đang xây dựng đất nước với lối sống đầy tình cảm. Một
con người với lý tưởng cao đẹp: Sống và cống hiến.... Chính điều đó đã tạo cho
tôi lòng tin yêu vào cuộc sống. Phải chăng anh chính là Mai An Tiêm trong thời
đại ngày nay. Tôi lên xe, tiếp tục cuộc hành trình và lại thiếp đi.
Bốp! Tôi giật nảy mình, mở mắt ,thấy anh
Hai đang đứng kế bên.Thì ra tôi ngủ quên lúc đang học bài.Nhưng hình như hơi ấm
và mùi trà vẫn còn thoang thoảng đâu đây.Tôi biết cuộc gặp gỡ này sẽ ở lại mãi
trong lòng tôi.Anh đúng là tấm gương sáng cho tôi và các bạn noi theo,để tôi hiểu
rằng tuổi trẻ cần phải biết cống hiến và hi sinh.Và khúc ca của Thanh Hải chợt
vọng lại trong lòng tôi:” Một mùa xuân nho nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời...
Đề : Mơ gặp bé Thu
Câu chuyện “Chiếc lược
ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con ông
Sáu. Hình ảnh cha con ông Sáu đã để lại trong lòng tôi nỗi cảm thông, yêu mến
và những ấn tượng sâu sắc.Tôi ao ước được gặp bé Thu. Thế rồi niềm ao ước ấy đã
trở thành hiện thực. Tôi không thể quên
được giây phút phút đó.
Không gian mờ ảo đưa
tôi đi.Khi tôi mở mắt ra thì thấy mình ở trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Đồng Tháp Mười
mà chung quanh nước đã lên đầy -một trạm
của đường dây giao thông. Cái trạm này - một ngôi nhà cất chen vào giữa một
chòm cây giữa khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào
tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa biển.
Sóng đập đều đều vào các chòm cây. Đàn cò đứng ngủ không yên, một vài con vỗ
cánh bay chấp chới. trời sáng trăng suông. Trong nhà có rất nhiều người.Mọi người
đang cười đùa trò chuyện trong lúc chờ giao liên đưa đi.Tôi giật mình.Tôi thấy
cảnh này vừa lạ vừa quen.Hình như tôi đã gặp đâu đó rồi thì phải nhưng tôi
không nhớ được.Bỗng tôi nhìn ra bên ngoài phía bờ sông,tôi thấy một cô gái còn
khá trẻ đang ngồi trầm tư một mình.Tôi mạnh dạn đi lại gần.Bây giờ tôi mới nhìn
rõ đó là một cô gái người mảnh khảnh, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Tôi
đoán cô độ mười tám hai mươi là cùng.Cô gái đang cầm một chiếc lược ngà nước mắt
giàn giụa.
- Chào chị ? Chị có sao không vậy ? Tôi
hỏi.
- Chị không sao.Chỉ tại chị xúc động
quá thôi.Cám ơn em đã quan tâm.
Bây giờ tôi mới nhận
ra mình đang gặp bé Thu. Thật đúng như nhà văn Nguyên Quang Sáng tả. Cô thật đẹp.Tôi
vội hỏi :
- Chiếc lược đẹp quá ! Nó chắc là kỉ vật mà chị quý trọng lắm phải không ?
- Ừ ! Chiếc lược ngà là quà ba chị đã tẩn
mẩn, kì công làm cho.
- Ba
chị thương chị quá ! Vây ba chi đâu .?..Tôi
đang hỏi nhưng vội ngưng vì biết mình lỡ lời.Lén nhìn chị Thu mà lòng đầy
ân hận. Nhưng hình như chị như bị chìm vào kí ức. Giọng chị nghẹn ngào
- Ba chị mất rồi. Mất khi chưa kịp trao
cho chị cây lược mà ba tự làm.Mỗi khi nhìn cây lược ngà ấy, nỗi nhớ về ba lại
ùa về trong chị.Chị luôn tự trách mình ngày ấy, vì sao lại làm cho ba buồn, làm
cho ba đau lòng. Cảm giác ân hận cứ day dứt mãi trong lòng.
- Tại sao vậy ? Chị có thể kể cho em nghe
được không ? Tôi hỏi
- Đựơc thôi ! Chị kể với giọng nghẹn
ngào . Nhìn chiếc lược ngà trong chị tràn ngập cảm xúc với bao kỉ niệm lần ba
chị về thăm nhà đầu tiên sau tám năm xa cách. Đó cũng là lần đầu chị được gặp
người cha mà mình hằng mong ước .Nhưng than ôi! cũng là lần gặp gỡ cuối
cùng.Càng nhớ chị càng ân hận day dứt.
Dù biết trước nguyên
nhân nhưng tôi vẫn cảm thấy bùi ngùi và thương cho chị Thu.Tôi nhìn chị thấy chị
đang cố kìm nén không cho tiếng nấc bật ra khỏi miệng.Chị nghẹn ngào kể tiếp :
“Ngày về thăm nhà, ba chị chỉ được ở nhà có vẻn vẹn có ba ngày, thế mà chị lại
từ chối sự săn sóc vỗ về của ba.Ba khao khát được nghe chị gọi tiếng "
ba" nhưng chị nhất định không gọi vì chị nghĩ ông không phải là ba mình.
- Tại sao chị lại không nhận cha ? Tôi
chen ngang
- Tại ông không giống người cha trong tấm
hình chụp chung với má chị,.Ba chị không có vết sẹo dài trên mặt như ông ấy.Ôi
cái tuổi ngây thơ ngang bướng.Giờ nghĩ lại chị lại thấy buồn cười. Thậm chí,chị còn nói trống không khi mời ba
vào ăn cơm; nhất quyết không gọi ba để nhờ chắt nước nồi cơm và hất cái trứng
cá mà ba gắp bỏ chén cho chị, làm văng cơm tung tóe. Còn nhớ lúc ấy, ba chị tức giận đã đánh vào mông chị. Thế là chị tức
lắm nhưng ngồi im, đầu cúi gầm xuống ngầm phản khán rồi lặng lẽ gắp cái trứng
cá bỏ vào chén, đi xuống bến, mở xuồng bơi sang nhà ngoại.Chị khóc ,méc ngoại mọi
chuyện. Đêm ấy chị được ngoại cho biết vết
sẹo dài trên mặt ba là do Tây bắn bị thương.
- Sao nữa chị ? Chị kể tiếp đi em hồi hộp
quá.
Chị Thu nhìn tôi với
cặp mắt còn ngân ngần nước.
- Từ từ chứ .chờ chị uống miếng nước
đã. Nói xong chị lấy biđông nước bên người uống một ngụm.Uống xong chị kể tiếp
:Đêm ấy chị không ngủ được, nằm im, lăn
lộn và thỉnh thoảng thở dài trông mau đến sáng để ngoại đưa về nhà. . Sáng hôm
sau chị theo ngoại về nhà.Chị thấy trong nhà, ngoài sân mọi người đến tiễn ba
chị rất đông. Chị đứng trong góc nhà buồn bã nghĩ ngợi. Và khi ba nhìn chị,chị
cảm nhận đôi mắt ấy trìu mến lẫn buồn rầu làm sao. Chỉ khi nghe ba nói :”Thôi,
ba đi nghe con!” thì tình yêu thương của chị giành cho ba trổi dậy, chị thét
lên: “Ba......... “Vừa thét chị chạy thó lên, dang hai tay ôm chặt cổ ba.Chị
hôn tóc , hôn cổ, hôn vai, hôn lên cả vết thẹo dài trên má của ba. Chị không muốn
cho ba đi .Mặc ba dỗ dành, chị vẫn cứ siết chặt ba. Đến lúc mọi người, mẹ và bà
dỗ chị hãy để ba đi, ba sẽ về mua cho chị chiếc lược, chị mới ôm chầm lấy ba lần nữa, mếu máo dặn
ba rồi từ từ tuột xuống. Chị không bao giờ quên hình ảnh ba trong lần gặp gỡ đầu
tiên và cũng là lần cuối cùng ấy.
Tôi lặng đi trong xúc
động.Thật thương cho chị Thu.Chiến tranh đã làm chị mất đi người cha mà chị yêu
quý.Không hiểu sao nước mắt đã nhòe trên mặt tôi .Chị Thu lấy khăn lau nước mắt
cho tôi cười nói : Coi em kìa ! Mau nước mắt quá ! Nghe chị nói tôi chỉ biết cười
ngượng.Vội hỏi cho đỡ ngượng :
- Vậy chị được ba tặng chiếc lược ngà
khi nào ?
Nghe tôi hỏi chị ngẩn
người ra .Tôi biết mình đã lỡ lời.Nhưng một thoáng im lặng trôi qua, chị nói với
giọng nghẹn ngào :
- Chiếc lược này chị nhận được từ một
người bạn của ba.Ba chị đã mất trong một trận càn.Trước khi mất ba chị đã nhờ
người bạn đưa cho chị.
Nói xong chị đưa tay
quyệt nước mắt.Tôi cảm thấy mình đáng trách quá khi đụng đến nỗi đau của chị.Và
tôi rơi vào trầm ngâm với suy nghĩ của mình. Chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi
là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Người còn, người
mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn
còn đây. Đây là minh chứng tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh
xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Tôi đồng cảm thấm thía nỗi
đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến cho chị Thu. Tình cảm cha con sâu sắc của
cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng,
ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Đang mơ màng tôi
nghe tiếng gọi
- Cô Hai ơi lên đường được chưa ?
Nghe tiếng gọi chị
Thu bỏ chiếc lược vào túi áo nhanh chóng chạy vào trong nhà không kịp chào tôi .
Nhìn chị chống sào
đưa người qua sông mà tôi trào dâng niềm
yêu thương.
Reng ! Reng ! Tiếng chuông báo thức vang
lên. Giờ tôi mới nhận ra minh đã có một giấc mơ thật đẹp. Và tôi học được một
bài học vô cùng lớn.Tôi hiểu những mất mát đau thương mà chiến tranh đã gây ra
cho bao nhiêu gia đình. Bởi vậy mà tôi càng yêu quý gia đình mình và thêm trân
trọng cuộc sống hoà bình hôm nay .
Đề : Mơ gặp chiến
sĩ trong bài thơ " Đồng chí "
Hôm ấy ở trên lớp,
tôi được học bài thơ " Đồng chí “ của Chính Hữu Bài thơ thật hay và ý
nghĩa. Nó nhanh chóng chiếm được thiện cảm trong tôi. Buổi tối, tôi lấy sách ra
học thuộc bài thơ. Đọc mãi... đọc mãi... tôi bỗng ngáp dài. Tôi thiếp đi, chìm
vào giấc ngủ. Và tôi dã mơ, một giấc mơ thật kì lạ.
Giấc mơ đưa tôi đến một khu rừng đen
kịt thật heo hút., xa lạ. Nơi đây mới vắng vẻ làm sao. Tôi giật mình ngơ ngác
giữa không gian mù mịt và những ngọn lửa cháy bập bùng nơi xa tít. Không biết
đây là đâu ? Tôi hoang mang, lo sợ. Tôi giật bắn người khi có một bàn tay chắc
nịch đặt lên vai tôi. Tôi quay người lại. Trước mắt tôi là môt chú bộ đội ăn vận
với bộ quần áo rách vá. Khuôn mặt chú vuông vắn và đầy nghiêm nghị nhưng nước
da lại xám vàng nên trông chú thật khắc khổ, Chú hỏi tôi với giọng nói ân cần:"
Cháu đi đâu mà lạc vào đây? Có biết đây là chiến trường ác liệt không ? Nơi chỉ
dành cho chiến tranh, cho nghững người lính ?"
Tôi trả lời chú:" Cháu chẳng biết
đây là đâu cả. Chú giúp cháu trở về nhé. Nhưng... hình như cháu đã gặp chú ở
đâu rồi hay sao mà nhìn chú quen thế?"
Chú mỉm cười và nói:" Chú là
Nguyễn Hữu Việt ,là chiến sĩ giải phóng quân Việt Bắc. Các chú đang chiến đấu
chống lại thực dân Pháp. Cháu nhìn quang cảnh nơi đây mà xem, những cánh rừng bạt
ngàn màu xanh nơi đã chôn xác bao kẻ thù và cả các đồng đội của chú. Những thân
cây đầy dấu vết của đạn bom. Những hố bam khổng lồ- vết tích của chiến tranh.
Giọng chú bùi ngùi khi vừa kể vừa chỉ cho tôi xem toàn cảnh xung quanh.Và cháu
hãy hướng con mắt về phía đằng xa kia, cháu sẽ binh đoàn của các chú đang đóng
quân."
Chú ấy dẫn tôi từ từ tiến doanh trại.
Tôi lễ phép chào hỏi các chú chiến sĩ giải phóng quân.Nhìn các chú thật lạ.
Quân trang thì mỗi người một kiểu, phần lớn mặc quần áo nâu, chân thì không có
giầy. Mà áo có lành lạnh lặn gì cho cam vá chằng vá đụp . Tất cả mọi ngườ cười
nói vui vẻ bên đống lửa .Các chú mời tôi cùng ăn bữa tối. Nói bữa tối cho sang
chứ chỉ có nồi cháo loãng với ít rau rừng.Nghĩ mà thương các chú. Vừa ăn tôi vừa
nhìn các chú.Thật lạ, tôi thấy các chú ai cũng có màu da giống nhau : Màu xám
tái và chưa kể đa số đều cạo đầu. Trời về đêm trở lên lạnh chú Việt lấy chiếc
chăn khoác lên mình tôi. Ngoài tôi, chẳng
thấy chú nào đắp thêm gì lên mình.Họ vẫn
cười đùa vui vẻ.
Sau bữa ăn, tôi được
chú Việt giải đáp thắc mắc. Đêm rét chỉ có đốt lửa sưởi vì chăn mền không đủ.
Muốn giặt quần áo phải ngâm mình dưới suối do trang phục hàu như mỗi người chỉ
có một bộ.. Đa số các chiến sĩ đều cạo tóc vì như chú Việt nói chấy rận rất nhiều
và bệnh sốt rét. Không ít anh em đã chết vì chấy rận, sốt rét rừng quật ngã .
Tôi thấy cuộc sống của các chú sao mà khổ
quá vậy.
Tôi hỏi:" Chắc cuộc sống của các
chú rất vất vả, nhọc nhằn. Các chú chắc gặp nhiều khó khăn lắm?"
" Đúng thế. Cuộc sống vất vả lắm. Đói
ăn, đói muối, sốt rét rừng, thú dữ hành hạ.- chú vừa nói vừa mỉm cười- Cái nụ
cười sao buốt giá . Các chú chiến sĩ khác cũng cười.
Và chú kể tiếp :” Hưởng ứng lời Bác kêu gọi
kháng chiến, Các chú ở khắp mọi nơi gia nhập đoàn quân này.”Ai có súng dùng
súng, ai có gươm dùng gươm”, Binh đoàn của với vũ khí thô sơ, có chiến sĩ người
Mường chỉ có cung nỏ mà khiến giặc Pháp phải kinh sợ. Do vậy, các chú hầu như
ai cũng giỏi võ thuật, đặc biệt là sức chiến đấu bền bỉ, sẵn sàng hi sinh “ .
Tôi cảm động với những câu chuyện huyền
thoại về những chiến binh mà chú Việt kế
như đại đội trưởng trinh sát của bị quân Pháp phục kích, kêu gọi ra hàng
nhưng anh đã cùng đại đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi tự sát. Chú Việt
bùi ngùi : Rất nhiều đồng đội của chú đã
ngã xuống nơi núi rừng Tây Bắc này.
Nghe đến đây tôi thấy thương các chú quá.
Ngày ngày các chú vẫn kiên trì bám sát trận địa bất kể mưa hay nắng , đau hay ốm.
Các chú đã quá vất vả, gian lao. Tôi đang suy nghĩ thì chú Việt nói tiếp:"
Tuy vất vả nhưng chú vẫn thấy hạnh phúc khi được sống, được chiến đấu với các đồng
đội của mình. Những người đồng chí từ bốn phương trời đã hội tụ về đây. Bạn bè
các chú tay trong tay chia nhau từng cơn ớn lạnh, từng điếu thuốc , từng niềm
vui nỗi nhớ…. Các chú cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, chia nhau những nỗi nhớ ,niềm
mơ ước. Những ngày tháng đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới giữa rừng, làm sao chú quên được? Các chú vẫn
nhìn lên bầu trời rộng mở."Nói xong
chú Việt ngân nga vài câu thơ :
Áo anh rách vai
Quần tôi có đôi miếng
vá
Chân không giấy
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Vừa ngân nga xong chú
Việt đứng lên khoác súng lên vai và bước đi.Tôi đi theo,vừa đi vừa ngắm nghía
doanh trại cùng các người lính. Chú Việt đã tới ca trực. Tối đứng lặng nhìn chú
và đồng đội đứng gác. Hình ảnh sao mà đẹp quá.
Ánh mắt chú sáng lên niềm tin và hi vọng. Các chú chiến đấu vì đất nước.
Với lòng quả cảm và quyết tâm, các chú đã vượt lên tất cả, hoàn thanh tốt nhiệm
vụ của mình.Và tôi ngước nhìn nên bầu trời .Trăng sao đẹp quá ? Trăng như treo
trên đầu ngọn súng.
Tôi không cầm được lòng mình. Tôi chạy tới,
ôm chầm lấy chú:" Các chú thật kiên cường! Cháu rất khâm phục các chú. Vượt
lên tất cả, các chú luôn lo cho đất nước.
Chú nắm chặt lấy tay tôi:" Chắc chắn là như vậy. Đát nước sẽ sớm
hòa bình cháu ạ."
Chú Việt vừa nói tới đây, bỗng từ xa một tiếng
nổ lớn vang lên. Tôi choàng tỉnh giấc. nghĩ lại về giấc mơ . Tôi vẫn cảm nhận
được sự ấm áp của bàn tay chú Việt khi chú nắm tay tôi.
Qua giấc mơ, tôi như hiểu thêm về những ngườ
lính bộ độ cụ Hồ anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Con người Việt Nam
là vậy: Không bao giờ khuất phục trước chiến tranh. Tôi nghĩ về mình. Tôi cũng
phải như các chú ấy, luôn cống hiến hết mình cho đất nước. Tôi sẽ cố gắng học tập
để noi gương các chú, đưa dất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm
châu, như lời Bác đã dạy.
Đề : Hãy tưởng tượng mình là người được gặp gỡ và trò chuyện
với người lính trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy và kể lại cuộc trò chuyện
đó.
Vào
những ngày cuối tuần, tôi thường hay ngồi đọc sách, đó là một cách để thư giãn
sau một tuần đi học mệt mỏi. Buổi sáng chủ nhật hôm ấy, tôi vẫn đọc sách như
mọi khi thì bỗng bố tôi đi chơi. Tôi khá bất ngờ vì một người bận rộn như bố
thường tranh thủ nghỉ ngơi ở nhà vào những ngày cuối tuần với những công việc
đã thành thói quen như xem ti-vi, đọc báo… Tôi ngạc nhiên vội hỏi rằng hai bố
con sẽ đi đâu, bố mỉm cười:
-
Đó là một nơi rất thú vị, khi nào
đến thì con sẽ biết.
Nghe
bố nói vậy, tôi không hỏi nữa và háo hức chuẩn bị đi ngay.
Tôi
đã tưởng tượng ra nào là công viên, kkhu vui chơi… nhưng không ngờ rằng đó lại
là một quán café ở Hàng Buồm, Hồ Gươm thật giản dị với cái tên “Lính”. Tôi cảm
thấy tò mò và thích thú khi bước vào. Đây là một quán café rất lạ mà tôi chưa
bao giờ đặt chân đến. Mọi vật trong căn phòng có cái gì đó rất thiêng liêng.
Những chiếc ba-lô của người lính, những chiếc mũ cối, những khẩu súng trường,
áo chống đạn… Tất cả như đưa tôi trở về với quá khứ của một thời chiến tranh
bom rơi đạn nổ.
Tôi
nhìn toàn bộ căn phòng, nơi đây không khác gì một “viện bảo tàng nhỏ” trưng bày
những ký vật thời chiến tranh. Đang say sưa ngắm nhìn xung quanh, chợt tôi
thấy một bác trung niên tầm tuổi bố tôi, bước ra chào hỏi và bắt tay bố
thân mật. Sau đó, tôi mới biết đó là một buổi hẹn trước của bố và một
người bạn hồi còn đi lính. Quán hàng hôm nay thật yên tĩnh mà có cảm giác như
không gian rộng lớn thu nhỏ về một góc nơi ba con người đang nói chuyện. Ba cốc
café bốc hơi nghi ngút, mở đầu cho cuộc nói chuyện giữa bố con tôi và người bạn
của bố.
Bố
giới thiệu với tôi rằng bác tên Trung, là người bạn thân của bố thời chiến. Bố
và bác Trung đã cùng nhua vượt qua bao khó khăn, thử thách trong những năm
tháng chống Mỹ ác liệt. Thoáng nhìn qua người bạn của bố mình, tôi thấy dù bằng
tuổi bố nhưng trông bác già dặn hơn đôi phần. Khuôn mặt vuông chữ điền cùng với
những vết chân chim nơi viền mắt tạo nên một vẻ hiền hòa, từng trải và có cái
gì đó trầm lặng. Con người bác toát nên một vẻ giản dị mà nghiêm trang đồng
điệu với không khí của quán café kì lạ này. Đang mải mê suy nghĩ chợt bác Trung
hỏi tôi:
-
Chắc cháu thắc mắc về quán café này
lắm nhỉ?
Tôi liền đáp lại:
-
Dạ, vâng ạ. Sao quán café này lạ thế
hả bác?
Bác cười xòa, uống một ngụm café,
tiếp lời:
-
Quán café này với bác không phải là
một cửa hàng để kinh doanh mà nó là nơi lưu giữ những kỉ niệm, hồi ức về những
năm tháng không thể nào quên.
“Thì ra là vậy” – Tôi tự nói với chính
mình. Tôi đã phần nào hiểu được mục đích mà bố dẫn tôi đến đây. Thấy
thích thú, tôi hỏi:
-
Vậy ấn tượng đặc biệt nhất của bác
về thời chiến là gì ạ?
Bác Trung không vội trả lời, ánh mắt
hướng về góc quán, nơi trưng bày những bức hình thời chiến. Đó là tấm hình của
một vầng trăng tròn, đẹp đến lạ thường. Vẫn nhìn vào đó, bác nói với tôi như
đang tự nói với chính mình:
-
Đối với bác chiến tranh không phải
chỉ về hình ảnh bom rơi đạn nổ mà còn là về hình ảnh một người bạn đặc biệt đã
giúp bác nhận thức được nhiều điều về chân lí cuộc sống – vầng trăng.
Tôi thoáng ngạc nhiên, dường như đọc
được vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, bác kể tiếp:
-
Hồi nhỏ bác sinh ra và lớn lên ở một
miền quê mà nơi ấy có tất cả những vẻ đẹp đơn sơ, giản dị nhất của làng quê
Việt Nam. Nơi ấy có những đồng lúa, những dòng sông cùng với biển rộng và cát
trắng. Vầng trăng đã gắn bó với bác từ thời ấu thơ, bác có thể ngắm nhìn cái
ánh sáng hư ảo ấy ở mọi nơi. Bác vẫn còn nhớ, hồi nhỏ và mỗi buổi tối, bác cùng
những người bạn của mình ra ngoài biển vui chơi. Ánh trăng trên mặt biển sáng
lấp lánh như đang lướt theo những con sóng vỗ vào bờ. Làn gió thổi nhẹ mang
theo cái vị mặn mòi của biển cả, tiếng sóng biển rì rào và vầng trăng tỏa sáng
lấp lánh mỗi đêm mùa hạ êm như nhung đã in dấu và tuổi thơ bác. Rồi khi đi bộ
đợi, vầng trăng cũng lại gắn liền với bác. Chắc cháu sẽ nghĩ rằng cuộc đời của
một người chiến sỹ sẽ chỉ có súng đạn, khói lửa chiến tranh nhưng đời lính cũng
có những giây phút rất nên thơ và lãng mạn. Những lúc ấy, vầng trăng là
tri kỷ. Trăng đã luôn đồng hành với bác trên những con đường hành
quân ra trận, những buổi họp đội, những lần phục kích chờ giặc. Nhờ có vầng
trăng, những người lính như được tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng lên những ước mơ
và hy vọng hòa bình. Bác đã ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ quên người bạn tâm
tình ấy. Vậy mà…
Ngừng
lại, dường như tôi có thể nghe thấy một tiếng thở dài nơi bác. Im lặng, tôi chờ
bác nói tiếp:
-
Sau khi kết thúc chiến tranh, bác
lên thành phố sinh sống. Khác với cuộc sống khổ cực nơi thôn quê thời chiến,
cuộc sống thành thị tiện nghi và hiện đại hơn nhiều. Ngày trước dường như ánh
sáng của vầng trăng là duy nhất, mỗi đêm hè chỉ ao ước ngồi ở thềm nhà để ngắm
trăng. Học cũng chỉ dưới ánh sáng lung linh huyền ảo ấy. Nhưng bây giờ đã khác.
Không cần đến trăng, mọi sinh hoạt của con người đều được rọi sáng bằng đèn
điện. Thế là bác cũng chẳng còn thói quen ngắm trăng nữa. Mỗi khi đêm xuống,
vầng trăng xuất hiện , bác cũng không còn cái háo hức chờ đợi. Vầng trăng đã
trở thành người dưng không quen biết. Cho đến một hôm, cả tòa nhà nơi bác sống
bị mất điện. Căn phòng tối om, bác vội bật tung cửa sổ, vầng trăng xuất hiện
ngay trước mắt bác. Trong lòng bác lúc ấy như có một xúc cảm mạnh mẽ trào dân
khiến khóe mắt như có gì rưng rưng. Nhìn thấy vầng trăng quen thuộc ấy, bao
nhiêu kỷ niệm ùa về. Những khoảnh khắc ngắm trăng hiện ra như trước mắt. Vầng
trăng vẫn tròn đầy, vẫn lung linh mặc cho thời gian có chảy trôi mặc cho
người đời có thay đổi. Chỉ trong giây phút ấy, bác đã hiểu ra được nhiều điều.
Bác tự trách mình đã vô tâm, đã quên đi một người bạn tri âm tri kỷ.
Giọng
nói bác trầm ấm, đôi mắt bác đỏ hoe, có cái gì đó lắng đọng. Có lẽ vì bác
xúc động quá. Và như có một điều gì đã vỡ lẽ trong tâm trí tôi. Tôi hiểu
rằng mình được sinh ra và lớn lên ở thời bình không hiểu được cái khó khăn gian
khổ thời chiến. Hạnh phúc, sự yên ấm ngày hôm nay có được là nhờ sự hi sinh
nương náu của biết bao người. Vì vậy, mình phải biết nhìn lại quá khứ, suy nghĩ
về những điều mình đã làm, về moi người xung quanh để cảm, để hiều và để trân
trọng nhưng giây phút của hiện tại.
Trước
khi hai con bố con tôi trở về nhà, bác Trung đã tặng tôi bức tranh vầng trăng
của quán và ôn tồn dặn tôi rằng:
-
Cuộc sống giờ đây bộn bề với biết
bao nhiêu tấp nập và hối hả, con người ta dễ vô tâm, lãnh cảm với những giá trị
truyền thống, với quá khứ nghĩa tình. Đôi khi cháu phải biết nhìn “ngược”, sống
chậm lại, nghĩ khác đi và yêu thương nhiều hơn.
Tôi
liền nói cảm ơn với bác vì nhờ có câu chuyện của bác ngày hôm nay mà cô bé này
đã có thêm một bài học bổ ích trong cuộc sống. Trên đường trở về nhà, tôi chợt
nhớ đến một câu nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Xin mọi người hãy tạm ngừng
một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để tự suy nghĩ về chính mình”.
Trần Ngọc Anh –lớp 9A4
Trường THCS Giảng Võ – Hà Nội