Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013
PHÂN TÍCH TÌNH CHA CON TRONG BÀI THƠ NÓI VỚI CON, NGỮ VĂN 9, TẬP II
Thơ Y Phương hồn nhiên mà trong sáng, chân thật mà mạnh mẽ như một bức tranh thổ cảm đan dệt những sắc màu phong phú và đa dạng, nhưng trong đó luôn có một màu sắc chủ đạo, là bản sắc dân tộc đậm nét và độc đáo. Nói với con là một bài thơ hay của nhà thơ. Bài thơ như là một khúc tâm tình của người cha, thể hiện lòng yêu thương con của người miền núi và mong ước thế hệ con cái phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Xưa nay, tình cha con luôn là một tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Yêu thương con, người cha luôn có rất nhiều điều muốn nói với con. Trong bài thơ, điều đầu tiên người cha muốn nhắc nhở con của mình, đó là cội nguồn hạnh phúc của con người chính là gia đình, quê hương. Ngay từ bốn câu thơ đầu, tác giả đã gợi ra một hình ảnh gia đình đầm ấm hạnh phúc. Người con chập chững bước từng bước đi trong mái ấm gia đình ấy. Cách liệt kê “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” khiến ta hình dung những bước đi của đứa con nhỏ. Cả ngôi nhà rung lên những tiếng cười của cha, của mẹ, của con... Rồi người con khôn lớn trưởng thành dần trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và trong nghĩa tình sâu nặng của quê hương. Tác giả đã có cách gọi độc đáo về những con người quê hương, một cách gọi thật gần gũi thân thương “người đồng mình”. Cách gọi ấy lại gắn liền với lời tâm tình rất tha thiết của cha với con “Người đồng mình yêu lắm con ơi”. Người cha đã lí giải để con có thể hiểu được “người đồng mình” đáng yêu thế nào. Họ sống rất đẹp, trong căn nhà của họ bao giờ cũng vang vọng tiếng hát: “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”. Các động từ “cài”, “ken” gây cảm giác quấn quýt thân thương, gợi một cuộc sống lao động êm đềm, vui tươi trong cảnh quê hương giàu đẹp nghĩa tình:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cách nhân hoá “rừng”, “con đường” cho ta cảm nhận thiên nhiên quê hương như người mẹ đã che chở, nuôi dưỡng tâm hồn đẹp đẽ của con người...
Đoạn thơ tiếp theo, người cha đã tha thiết nói với con về những phảm chất của con người quê hương. Cụm từ “người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về hình ảnh con người quê hương. Lời gọi con thật thiết tha, lời nhắn nhủ thật chân tình “Người đồng mình thương lắm con ơi”, người cha đã lần lượt ca ngợi những phẩm chất của “người đồng mình” với cách nói cụ thể, mộc mạc và độc đáo của người dân tộc miền núi. Người cha như giảng giải để cho đứa con hiểu về “người đồng mình”: Họ có thể có những nỗi đau buồn nhưng ý chí nghị lực luôn vươn lên “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. “Người đồng mình chấp nhận gian khó không sợ gian khổ nghèo đói. Điều đó được thể hiện trong điẹp từ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết yêu quý tự hào về quê hương. Nói với con về “người đồng mình”, người cha muốn nhắc nhở con phải sống thuỷ chung với quê hương, không chê quê hương dù quê hương có đói nghèo vất vả. Người cha tiếp tục nói với con về “người đồng mình” sống mạnh mẽ “như sông như suối dù có “lên thác xuống ghềnh” với cặp từ trái nghĩa “lên” “xuống” càng nhấn mạnh thêm ý chí của “người đồng mình”. Dùng những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như “sông”, “suối”, “thác”, “ghềnh” mang tính chất biểu trưng cho những khó khăn gian khổ và sức mạnh vượt khó khăn của những con người quê hương là một cách độc đáo để người cha tâm sự với con.
Phẩm chất của những con người miền núi còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong: “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/ Chẳng có ai nhỏ bé đâu con”.
“Người đồng mình” là vậy, không biết nói hay nói khéo, tuy mộc mạc chân chất, tuy “thô sơ da thịt” nhưng phẩm chất cao đẹp của họ, tâm hồn ý chí họ không bao giờ nhỏ bé. Vì thế, trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng để xứng đáng là “người đồng mình”. “Người đồng mình” xây dựng quê hương bằng chính sức lực và tính bền bỉ của mình:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Việc “đục đá” là khó, đòi hỏi phải có tinh thần ý thức cao, vậy mà “người đồng mình” đã làm được để rạng rỡ quê hương. Họ sáng tạo và lưu truyền những phong tục tập quán đẹp. Người cha đã tâm sự, đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh truyền thống quê hương.
Kết thúc bài thơ là lời dặn, lời khuyên của người cha đối với con. Đó là lời gọi trìu mến, lời nhắn nhủ thiết tha. Điều người cha dặn con thật ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc “Con ơi tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được/ Nghe con”. Người cha muốn nhắc nhở con là phải biết tự hào về những truyền thống quê hương, sống sao cho đẹp, xứng đáng với những phẩm chất của “người đồng mình” và phải tự tin vững bước trên đường đời, phải nhớ về cội nguồn dinh dưỡng, cội nguồn quê hương đất nước. Đó là cái lôi nuôi dưỡng con người khôn lớn trưởng thành. Thể thơ tự do, nhịp điệu lúc bay bổng nhẹ nhàng, lúc mạnh mẽ đã tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những thang bậc tình cảm khác nhau khiến lời người cha truyền thấm sang con.
Những phương tiện ngôn ngữ, những hình thức diễn đạt của người miền núi đã góp công lớn trong việc diễn tả tình cảm yêu thương con của người cha. Bài thơ đã góp phần tạo nên một tiếng nói riêng độc đáo về tình cảm gia đình, tình cảm quê hương trong làng thơ Việt Nam.
(Cao Thị Huyền Trang-Lớp 9H – THCS Cửa Nam – TP.Vinh – Nghệ An)