Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2013
Tóm tắt nghị luận xã hội
A. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO LÝ
1. LÒNG Vị THA – LÒNG KHOAN DUNG
- Lòng vị tha cũng chính là một trong những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam.
- Lòng vị tha là khoan dung, tha thứ, rộng lượng, không chấp nhất những sai lầm của người khác và cho họ có cơ hội để sửa chữa lỗi lầm. Lòng vị tha giúp cho con người sống thanh thản. Người có lòng vị tha sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng, tâm hồn cảm thấy thanh thản hơn,
- Khi chúng ta có lòng vị tha , chúng ta sẽ trở thành một người giàu có về mặt tinh thần và nghị lực . Đó là điều rất đáng quý. Và lẽ đương nhiên rằng , mọi người được ta tha thứ cũng như mọi người tha thứ cho ta sẽ giúp cho mỗi người có cơ hội sửa sai và hoàn thiện nhân cách mình hơn . Từ đó xã hội ngày càng phát triển theo hướng tốt một cách vượt bậc .
2. LÒNG NHÂN ÁI – TÌNH YÊU THƯƠNG
- Một trong những nét tạo nên vẻ đẹp về tâm hồn chính là lòng nhân ái.
- Nhân ái là tình yêu thương giữa con người với con người. Lòng nhân ái thể hiện ở chỗ biết cho đi mà không suy nghĩ tính toan thiệt hơn, lợi hại cho bản thân mình. Đó là khi ta mở rộng lòng mình đồng cảm, yêu thương để thấy những con người đau khổ để sẻ chia an ủi và chợt thấy mình sung sướng đến dường nào khi thấy người ta an ủi yêu thương được hạnh phúc, ấm no.
- Nhân ái là một phẩm chất đáng quí. Chính lòng nhân ái đã làm cho tâm hồn và trái tim ta được rộng mở. Nhờ đó, ta sẽ thật sự càm thông, đồng cảm trước những mảnh đời khó khăn, bất hạnh.
3. LÒNG TỰ TRỌNG
- Lòng tự trọng là đức tính nền tảng để xây dựng lên những phẩm giá cao quý của một người chân chính .
- Lòng tự trọng, hiểu một cách đầy đủ , chính là có ý thưc về mình, tự mình tôn trọng mình, coi trọng danh dự của mình .Người có lòng tự trọng luôn tự nguyện làm những việc phải làm , quyết không làm những việc không được làm , không nên làm,tự nhận những gì mình xứng đáng được hưởng , quyết không thụ hưởng những gì không phải của mình , vật chất cũng như tinh thần , không đánh cắp thành quả của người khác.
- Lòng tự trọng thường đi liền với đức tính khiêm tốn. Lòng tự trọng khác hẳn với tính kiêu ngạo, tự đắc và tính tự ái.Các tính cách này làm ta cảm thấy khó chịu khi có người nào đó góp ý với những lỗi lầm của mình.Thiếu tự trọng sẽ dẫn đến các tác hại to lớn liên quan đến gia đình và xã hội.
4. LÒNG KHIÊM TỐN
- Khiêm tốn không chỉ là một đức tính tốt mà nó còn là nghệ thuật sống, là nền tảng vững chắc giúp mỗi người chúng ta tạo lập sự nghiệp.
- Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân mình, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người khác. Người có lòng khiêm tốn luôn luôn thể thái độ hòa nhã, nhún nhường trong văn hóa ứng xử, và quan trọng hơn, họ luôn tỏ ra tôn trọng bản thân mình và tôn trọng người khác.
- Khiêm tốn sẽ chỉ cho ta thấy những thiếu sót của bản thân mình để sửa đổi, không tỏ ra thái độ kiêu căng tự mãn, và giúp ta biết bình tĩnh và tiếp thu những ý kiến đóng góp của mọi người xung quanh. Chỉ cần có lòng khiêm tốn, chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn và được mọi người yêu quý và thường gặt hái được nhiều kết quả và thành công mĩ mãn.
5. LÒNG BIẾT ƠN
- Một trong những đức tính quan trọng và cần thiết của con người là sống phải biết ơn, biết nghĩa.
- Lòng biết ơn là sự thể hiện việc hiểu và nhớ công ơn của người khác đối với mình. lòng biết ơn là một trong những phẩm chất cần thiết, cao đẹp để hình thành nên một con người chân chính, bởi bên cạnh việc thu nhận kiến thức thì việc tu dưỡng, rèn luyện cho bản thân về lòng biết ơn có một ý nghĩa rất lớn trên con đường hoàn thiện nhân cách của mỗi con người.
-Lòng biết ơn không chỉ được thể hiện ở một cá nhân hay một bộ phận mà những đức tính đó cần phải được gắn kết tạo thành những phẩm chất, đạo lí trong cuộc sống. Bởi đó chính là những nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.
6. LÒNG HIẾU THẢO
- Đạo đức, phẩm chất là một phần quan trọng đối với bản thân con người. Trong đó hiếu thảo là một đức tính vô cùng cần thiết đối với chúng ta.
-Hiếu thảo là tình cảm tự nhiên và cũng là đạo đức của con người. Người con hiếu thảo luôn biết kính trọng và yêu thương cha mẹ của mình.
- Cha mẹ là người đã có công rất lớn trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Họ sinh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người. Cha mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc những đứa con của họ một cách vô điều kiện, luôn bên cạnh, chia sê, quan tâm trong mọi hoàn cảnh dù khó khăn, gian khổ hay lúc thành công hạnh phúc. Bởi thế, mỗi chúng ta cần phải đền đáp lại những công ơn to lớn ấy từ những việc làm nhỏ nhất
7. ĐỨC TÍNH TRUNG THỰC
- Trung thực là đức tính rất cần thiết trong cuộc sống.
- Trung thực có thể hiểu là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật. Trung thực là luôn tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải, sống ngay thẳng, thật thà và dũng cảm nhận lỗi khi mắc khuyết điểm.
- Đức tính trung thực của con người được thể hiện qua cách sống ngay thẳng, thật thà, dám nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Người trung thực là người thật thà, ngay thẳng chân thành trong cách đối xử với mọi người, luôn nhìn nhận khách quan về các sự việc trong cuộc sống, luôn tôn trọng và bảo vệ chân lí, bảo vệ lẽ phải. Tính trung thực còn giúp cho chúng ta có cái nhìn, đánh giá đúng năng lực của mỗi người. Sống trung thực giúp chúng ta nâng cao phẩm giá, làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội và sẽ được mọi người tin yêu, kính trọng
8. ĐỨC TÍNH NHẪN NHỊN.
- Đức nhẫn nhịn được các bậc hiền nhân xem là một trong các phương châm xử thế hàng đầu. Nó thể hiện được trí tuệ sáng suốt, tính cách điềm đạm, ý chí bền vững, lòng khoan dung đức tính vị tha của người quân tử.
- Nhẫn nhịn hay nhường nhịn là chấp nhận để người khác hơn mình, là thái độ hoà nhã không có ý định tranh giành hơn thua. Nhường nhịn là sự thông cảm, tha thứ cho nhau trong giao tiếp ứng xử để cuộc sống tốt đẹp hơn
- Nhường nhịn là một chìa khoá đưa con người đi đến thành công. Con người là đối tượng có những mối quan hệ đầy phức tạp , chỉ cần ta sơ xuất sẽ dẫn đến hiểu lầm, tranh chấp thậm chí hoá ra hận thù khó giải. Biết bao nhiêu bi kịch gia đình, bao nhiêu cuộc xô xát diễn ra trong nhà trường, ngoài xã hội cũng vì con người ta không biết yêu thương nhường nhịn.
9. ĐỨC TÍNH KIÊN NHẪN
- Đức tính kiên nhẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng,nó giúp ta vượt qua khó khăn,thử thách .
- Kiên nhẫn chính là thái độ kiên trì, vững vàng, chịu thương, chịu khó, không lùi bước hay nản lòng trước mọi khó khăn để đạt được mục đích cũa mình. Kiên nhẫn là một trong những nhẫn tố chính,là bước đệm để đưa ta tới thành công, là một đức tính mà những người muốn thành công phải có.
- Chúng ta cần phải có lòng kiên nhẫn vì mọi thành công không phải tự nhiên có mà chúng ta phải đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt và cả thơi gian. Kiên nhẫn tập cho chúng ta một ý chí, nghị lực. Giúp con người ta có thêm hy vọng mà không từ bỏ buông xuôi. Lòng kiên nhẫn giúp ta sáng suốt, thẩn trọng hơn.
10. ĐỨC TÍNH CẦN CÙ CHĂM CHỉ
-Một trong những đức tính cần thiết để tạo nên sự thành công trong cuộc sống đó là chăm chỉ.
- Cần cù là sự chăm chỉ, cần mẫn trong công việc, học tập, quyết tâm đạt được mục tiêu của mình.Nếu biết cố gắng, chăm chỉ, kiên trì thực hiện thì dù là công việc hay thử thách gian nan nhất ta cũng có thể vượt qua được một cách dễ dàng. Vì thế, nói tính chăm chỉ là thành phần không thể thiếu của sự thành công thật đúng đắn.
- Cần cù là một đức tính không thể thiếu trong cuộc sống mỗi con người. Cần cù không chỉ là hết mình làm việc, học tập để đạt được mục tiêu của mình mà còn phải không ngừng cố gắng, không bao giờ tự mãn với những gì mình đạt được trong quá khứ. Tính chăm chỉ quyết định nhiều điều quan trọng mà ta không thể nào nhìn thấy ngay lập tức như sự thành công, vinh quang trong học tập, công việc và cuộc sống.
11. TÍNH TIẾT KIỆM
Cuộc sống của con người mỗi ngày một thay đổi, của cải vật chất ngày càng nhiều nhưng tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận. Nếu chúng ta không biết tiết kiệm thì làm ra bao nhiêu cũng hết
- Tiết kiệm là một trong những phẩm chất cơ bản của con người. Tiết kiệm là sử dụng tiền bạc, của cải vật chất, sức lao động, thời gian… một cách hợp lí, đúng mức, không lãng phí. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, keo kiệt, không phải là coi trọng đồng tiền một cách quá đáng, việc cần chi tiêu cũng không dám chi tiêu, gặp lúc cần đóng góp cũng không đóng góp. Tiết kiệm cũng không phải là dè xẻn, để dành, cất kín tiền bạc dư thừa mà ngược lại, cần làm cho nó sinh sôi nảy nở.
-Tiết kiệm đem lại lợi ích to lớn cho con người và xã hội. Tiết kiệm để tích lũy vốn, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, từng bước đưa đất nước đi lên.
-Tiết kiệm là biểu hiện của nếp sống văn minh, văn hóa. Xưa nay, những kẻ có thói xấu ném tiền qua cửa sổ đều mau chóng thất cơ lỡ vận, còn những người biết chi tiêu hợp lí và thực sự tiết kiệm thì ngày càng giàu có.
12. TINH THẦN ĐOÀN KẾT
- Đoàn kết là một đức tính cần thiết trong việc xây dựng và hình thành tính cách con ngươì.
- Đoàn kết là kết hợp các cá thể trong một khối chung, tập hợp những người có chung một mục đích thành một khối thống nhất, khăng khít với nhau. Có được sự kết hợp ấy ắt hẳn sẽ đạt được thắng lợi và cũng có thể gặt hái được nhiều thành công vang dội.
- Đoàn kết là kết hợp được nhiều người, mỗi người có một ưu điểm riêng mà người khác không có nên khi tất cả họ đồng tâm cùng làm một công việc thì công việc ấy sẽ được chia ra tuỳ theo khả năng mà mỗi người có thể. Vậy nên thành công nằm trong tầm tay họ dễ dàng. Sự đoàn kết mang chúng ta lại gần nhau hơn để biết cảm thông, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau và phấn đấu hết mình. Thế nên sự bền vững của tinh thần đoàn kết cũng có vai trò rất quan trọng trong tập thể, xã hội.
13. TINH THẦN KIÊN ĐịNH
- Trong cuộc sống, mỗi con người đều phải trải qua rất nhiều khó khăn thử thách mới thành công. Có những người dễ dàng đầu hàng hoàn cảnh, nhưng lại có những người luôn ngẩng cao đầu đối diện với mọi hoàn cảnh. Sự khác biệt giữa họ chính là: sự kiên định - yếu tố quan trọng tạo nên thành công.
- Kiên định là sự kiên trì, trước sau như một, quyết tâm giữ vững lập trường của mình, là sự vững vàng mà bạn cần có trong mọi hoàn cảnh. Những người kiên định luôn giải quyết mọi vấn đề một cách dứt khoát, bất chấp mọi trở ngại lúc nào cũng sẵn sàng cản bước chân họ, tiếp tục tiến bước cho đến khi nào đạt được những mục tiêu của đời mình. Vì vậy mà họ thường thành công trong cuộc sống.
- Sự kiên định sẽ giúp con người có thể vượt qua bất cứ khó khăn, bất cứ sự thất bại nào. Hãy kiên định rồi thành công sẽ đến với bạn.” Chính lòng kiên định sẽ giúp ta toàn tâm toàn ý giải quyết mọi vấn đề một cách dứt khoát, bất chấp mọi trở ngại lúc nào cũng sẵn sàng cản bước chân ta. Khả năng dám đối mặt với những khó khăn để vượt qua và theo đuổi mục đích của đời mình sẽ phát huy sức mạnh tiềm ẩn bên trong mỗi con người, đưa ta luôn tiến về phía trước và thành công.
14. TINH THẦN TỰ HỌC
- Tự học là một cách học tích cực hiệu quả.
- Tự học là sự tự giác, chủ động vươn lên nắm bắt tri thức, kinh nghiệm của nhân loại. Đó cũng là cách học tiên tiến, thông minh trong xã hội hiện nay. Bên cạnh đó, tự học còn là học qua sách vở, qua thầy cô, qua thực tế đời sống mày mò khám phá tri thức…Ngày nay ta có thể học qua mạng, qua lao động sản xuất để có kiến thức, có kĩ năng sống.
-Kiến thức của nhân loại đang ngày càng tăng và tỉ lệ thuận với sự phát triển của đất nước, nếu không tự học chúng ta sẽ không nắm bắt, theo kịp thời đại và sẽ trở nên lạc hậu. Tiếp theo đó trí nhớ của con người có hạn, không phải điều gì cũng tiếp thu được cũng in sâu vào tâm trí người học, nhất là những gì con người không hiểu rõ do đó tự học sẽ khắc phục được nhược điểm này. Bên cạnh đó tự học còn giúp con người rèn luyện được thói quen tích cực, chủ động mà điểu đó rất cần thiết trong xã hội hiện đại
15. ĐỨC HI SINH.
-Đức hy sinh là tình cảm cao đẹp, là phẩm chất cao đẹp của con người.
- Đức hy sinh là những suy nghĩ, hành động vì người khác, vì cộng đồng. Người có đức hy sinh không chỉ có tấm lòng nhân ái mà còn là người biết đặt quyền lợi của người khác, của cộng đồng lên trên quyền lợi của bản thân mình… Người có đức hy sinh luôn được moi người yêu mến, trân trọng.
-Đức hi sinh là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái, tình yêu thương giữa con người với con người. Bởi đức hi sinh bao gồm trong đó lòng nhân ái và tình yêu thương, tinh thần nhân đạo của con người. Nhưng đức hi sinh đòi hỏi con người phải biết san sẻ cuộc sống tinh thần và vật chất của mình cho người khác, cho đồng loại để họ có thể vượt qua khó khăn trong cuộc sống.
16. SỐNG CÓ TRÁCH NHIỆM
-Sống trong một cộng đồng,cũng giống như sống cùng một nhà,luôn đòi hỏi mối quan hệ khăn khít,quan tâm lẫn nhau,chia sẻ và có trách nhiệm với nhau để cùng nhau tiến bộ. Việc sống có trách nhiệm là vô cùng quan trọng.
- Sống có trách nhiệm là làm tròn nghĩa vụ, bổn phận với xã hội, trường lớp, gia đình và bản thân…dám làm, dám chịu trách nhiệm về những hành động của bản thân.
- Sống có trách nhiệm còn là sống trọn vẹn mỗi ngày, không lãng phí từng phút từng giây. Tức là ta phải sống sao cho ý nghĩa với mọi việc, mọi người mà ta có trách nhiệm. Phải hoàn thành tốt công việc được giao hoặc tự mình đặt ra kế hoạch cho bản thân. Sắp xếp thời gian biểu để dành cho bản thân những giây phút khuây khỏa mà trong điều kiện, ta có khả năng và xứng đáng được tận hưởng. Ta sẽ phải dành thời gian cho người thân, bạn bè và những người quanh mình theo cách này hay cách khác. Tất nhiên sẽ không dễ dàng gì để làm được tất cả mọi việc một cách trọn vẹn, nhưng làm tốt được một trong những việc ta phải làm mỗi ngày sẽ mang lại cho ta một niềm phấn khởi mới, vui vẻ và tận hưởng cuộc sống một cách nhiệt thành hơn.
17. TÌNH BẠN
-Một trong những hạnh phúc lớn nhất ở đời này là tình bạn, và một trong những hạnh phúc của tình bạn là có một người để gửi gắm những tâm sự thầm kín của riêng mình. Đó là một trong những quà tặng quý giá nhất của Thượng Đế. Không người nào có thể tự nhiên trưởng thành trên đời này và có một cuộc sống hoàn hảo mà không có ít nhất một người hiểu mình.
- Tình bạn là điều kì diệu của cuộc sống . Cuộc sống ban cho ta một ai đó để sẻ chia , để nương tựa , để cùng khóc khi buồn , để cùng cười khi hạnh phúc . Giá trị đích thực của một người bạn thật sự là rất to lớn , là cả một hạnh phúc . Một người bạn đúng nghĩa luôn mang đến cho ta nụ cười , ở bên cạnh họ ta thấy an toàn , thấy ấm áp cả khi được lắng nghe và ngược lại .
- Cách duy nhất để có bạn tốt là hãy để bản thân mình là một người bạn tốt trước đã . Hãy yêu thương bằng tất cả tấm lòng , hãy học cách cho đi không chờ nhận lại , học cách tha thứ cho những lỗi lầm , hay học cách chấp nhận con người của bạn mình …. Ta sẽ nhận được nhiều hơn nếu ta có một trái tim chân thành . Tình bạn vốn dĩ là không có khuôn mẫu , chỉ có chính cách ứng xử của ta mới là thước đo lòng chân thành .
18. TÌNH MẪU TỬ
-Mọi nguời sinh ra đếu mang trong mình một tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả. Tình mẹ ấm áp, bao dung dành cho con hay tình cảm kính trọng yêu quý của những đứa con dành cho mẹ mình củng bao điều tốt đẹp.
-Tình mẫu tử cao quý ấy không gì có thể sánh bằng.Đó là một thứ thiêng liêng, quý giá xuất phát từ tâm hồn long lanh như pha lê, dịu ngọt như dòng suối của mẹ dành cho đứa con thân yêu của mình.
- “ Mẹ! “- thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao. Mẹ là người đã mang nặng đẻ đau, là người chấp cho ta những đôi cánh uớc mơ để bay đến chân trời hi vọng. Những việc làm và tình cảm mẹ dành cho con không gì có thể sánh bằng. Tình mẹ ấm áp như vầng thái dương, dịu hiền như dòng sông xanh. Ngay từ những ngày đầu, mẹ là người nâng đõ , yêu thương chúng ta. Ngay cả khi lớn lên, mẹ vẫn sát cánh cùng chúng ta trên con đường đời đầy gian lao và thử thách. Và cũng chính vì vậy mà những đứa con luôn trân trọng điều ấy.
19. TÌNH CẢM THẦY-TRÒ
-Tình cảm thầy trò là một tình cảm rất đẹp giữa người đứng trên bục giảng và học trò.Tình cảm ấy như một bông hoa mang màu sắc êm đềm mà Thượng đế dành tặng cho những ai đã và đang cắp sách đến trường.
- Tình thầy trò là thứ tình cảm thiêng liêng nhất , chân thật và thanh khiết vô cùng. Tình thầy trò là tình cảm giữa thầy với trò xuất phát từ tấm lòng. Nó là cảm xúc chân thật , là tình thương, là lòng biết ơn và yêu quý giữa hai con người với nhau. Thầy dạy dỗ, truyền đạt kiến thức và giúp đỡ học sinh học tập cũng như rèn luyện nhân cách và phẩm chất của người học sinh. Học trò dành tình cảm, lòng biết ơn cũng như thái độ kính trọng của mình dành cho thầy.
- Con người từ nhỏ đã được cắp sách đến trường,học hỏi những kiến thức mới lạ.Chính thầy cô là những người cung cấp tri thức,phương pháp học tập,kinh nghiệm sống và những phẩm chất cần phải co ở con người cho ta.Thầy cô cho đi nhưng không đòi hỏi phải nhận lại bất kì thứ gì.Người như cha mẹ thứ hai cùa ta. Tình cảm giữa thầy và trò sẽ mãi chiếm một góc trong lòng mỗi con người và sống cùng năm tháng.
20. TÍNH KỶ LUẬT
-Kỷ luật là chiếc chìa khóa vạn năng giúp mọi người thành công
-Kỷ luật là sự rèn luyện giúp chúng ta tự sửa chữa, tạo khuôn nếp, tạo sự mạnh mẽ hoặc giúp chúng ta trở nên hoàn hảo hơn. Khi tự giác áp dụng kỷ luật với bản thân, bạn sẽ nhận ra rằng mình đang kiểm soát những hành động và cả suy nghĩ của chính mình. Chính bạn có thể quyết định mình sẽ làm gì, làm như thế nào và khi nào sẽ hoàn thành những mục tiêu đã đặt ra.
- Tính kỷ luật chắc chắn sẽ giúp chúng ta hoàn thành những việc khi chúng ta cần phải được hoàn thành, chứ không phải khi chúng ta cảm thấy thích hoàn thành chúng. Đây là chìa khóa để thành công và cả hạnh phúc, bởi chúng ta sẽ cảm thấy hài lòng thật sự khi gặt hái kết quả từ công sức lao độngh chăm chỉ và bền bỉ của chính mình.
21.TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
- Tình yêu quê hương đất nước là sự yêu thương gắn bó với mảnh đất – con người quê hương, biết rung động trước những vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, vui buồn với vận mệnh dân tộc.
-Tình yêu quê hương bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt hàng ngày, những tình cảm đôi lứa, tình yêu sự gắn bó với gia đình, làng quê, đó là tình cảm trong sáng nhất, cao cả và góp phần làm thanh lọc tâm hồn con người. Đó cũng là tình cảm gắn kết cá nhân với cộng đồng, tạo nên sự đồng cảm, sự lắng đọng sâu sắc và thường trực trong trái tim con người. Chính sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, thành ý chí bất khuất, sức mạnh chiến đấu, quyết tâm bảo vệ đất nước, đánh đuổi ngoại xâm, ý thức xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
-Vì vậy bản thân mỗi học sinh chúng ta cũng phải luôn xác định quan niệm đúng đắn về lòng yêu quê hương, bằng cách luôn trau dồi tu dưỡng những tình cảm nhân văn, phải sống đẹp với mọi người, biết rung động trước cái đẹp cuộc sống quanh ta.
22.VAI TRÒ CỦA LAO ĐỘNG
- Quá trình lao động miệt mài là yếu tố kì diệu để con người phát triển.
- Lao động là sự vận dụng khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của bản thân để cải tiến kĩ thuật, thay đổi phương pháp làm việc để thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy các lĩnh vực của xã hội ngày càng phát triển nhằm phục vụ cho nhu cầu ngày càng đa dạng của con người.
- Lao động là việc làm vẻ vang. Nhờ lao động, con người có thể tự kiếm sống bằng chính đôi tay của mình. Nhờ lao động, con người có một cuộc sống tự do không bị lệ thuộc vào bất cứ ai. Tự do là phần thưởng vô giá mà phần thưởng này chỉ dành cho những người biết lao động và quý trọng giá trị đích thực của lao động.
- Lao động là điều hết sức cần thiết, không chỉ cho bản thân mà còn cho dân cho nước. Lao động nuôi sống bản thân con người, là quá trình hình thành nhân cách, phát huy trí tuệ, tài năng. Lao động là động lực phát triển đất nước. Lao động còn là nghĩa vụ của mỗi người. Là người công dân trên một đất nước độc lập, ý thức về trách nhiem của mình, ai ai cũng phải ra sức xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, một đất nước phồn vinh hơn.
23. LÒNG DŨNG CẢM
-Hành trang đầu tiên để bắt tay vào thực hiện ước mơ chính là lòng dũng cảm.
- Lòng dũng cảm là dám đối mặt với sự thật dù nó có khó khăn và rất gian nan, là không trốn tránh, là tinh thần luôn lạc quan để vượt qua bao sống gió của cuộc sống .Lòng dũng cảm giúp ta luôn là chính mình và để không có bất cứ điều gì có thể che khuất ước mơ, lí tưởng, hoài bão của chúng ta..
- Hạnh phúc chỉ đến với những người có lòng dũng cảm. Dũng cảm làm theo tiếng gọi thực hiện ước mơ của trái tim, dũng cảm nhìn nhận những lỗi lầm để rút kinh nghiệm và còn phải dũng cảm để tiếp bước trên con đường đi đến ước mơ, hoài bão. Lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta dám đối mặt với những thăng trầm trên con đường theo đuổi ước mơ, chính lòng dũng cảm cho ta biết những sai phạm của chính bản thân, chính lòng dũng cảm giúp ta vươn lên, khẳng định mình, … Dũng cảm vượt lên bao chông gai để ước mơ trở thành hiện thực.
B. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI
1. BỆNH VÔ CẢM
- Cuộc sống xung quanh ta còn đầy rẩy biết bao cảnh khổ, những hoàn cảnh thật đáng thương trông mà ai chẳng xót, vậy mà cũng có những kẻ nhìn như không thấy.Phải chăng chính cái bệnh vô cảm đã làm cho bạn trở nên vô tri, vô giác, chẳng thèm nhòm ngó gì đến sự hiện hữu của mọi người chung quanh?
- Hiện nay bệnh vô cảm đang phát triển một căn bệnh của thế giới hiện đại - đúng hơn là mặt trái thuộc thế giới hiện đại. Bệnh này thể hiện ở chỗ không hề động lòng trước những nỗi đau của người khác cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xảy ra hàng ngày. Vô cảm tức là không có cảm xúc trước bất kì sự vật sự việc gì.
-Sở dĩ nảy sinh căn bệnh này vì những người đó không tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, không có lòng nhân đạo, thờ ơ với mọi người, ý thức tập thể, ý thức cộng đồng quá kém. Họ không biết cảm thông, họ không cảm nhận được cái hạnh phúc của cuộc sống, họ quá vô tình và thờ ơ với thực tại.
-Ngăn chặn nó không phải bằng biện pháp hành chính mà bằng chính con tim của mỗi con người. Chúng ta hãy sống bằng chính con tim của mình, bằng chính những gì mà tạo hóa đã ban tặng cho ta. Hãy lấy cái “tình” mà cảm hóa hành động, hãy lấy tình thương yêu mà làm ngôi vị trung tâm của cuộc sống, hãy giang rộng trái tim mình, hãy quan tâm đến mọi người, hãy thông cảm, sẽ chia với những mảnh đời bất hạnh, hãy biết quý trọng tình cảm và tha thứ cho sự lổi lầm.
2. SỐNG VĂN MINH SẠCH ĐẸP
- Lối sống của mỗi người ngày càng văn minh , tiến độ ứng xử có văn hóa . Đặc biệt là trong yêu cầu của cuộc sống ngày nay , đường phố xanh – sạch – đẹp là một tiêu chuẩn không thể thiếu đối với một thành phố văn minh, sạch đẹp .
-
-Con người sinh sống trên trái đất này, quá trình sinh hoạt và giao tiếp ứng xử trong cuộc sống cũng thể hiện nếp sống văn minh. Mỗi người trong cộng đồng ai cũng muốn có sức khỏe dồi dào , người thân không ốm đau , láng giềng yên ổn nhưng thực tế cho thấy ý thức giữ vệ sinh chung của một bộ phận dân cư còn kém. Nhà cửa của mỗi người thường được quét dọn sạch sẽ. Họ không bao giờ vứt rác bừa bãi trong gia đình mình nhưng ngoài đường , dòng sông thì là một bãi chiến trường.
- Mỗi người chúng ta hãy sống thật tốt đẹp , giữ gìn vệ sinh ở bất kì nơi đâu , trong nhà hay ngoài ngõ , trên cạn hay dưới sông để tạo môi trường sống trong lành cho cả mình và mọi người , để có điều kiện cống hiến nhiều nhất cho đất nước . Hãy làm cho mình đẹp hơn dưới con mắt của mọi người , đứng vì những thói quen xấu của cá nhân như vứt rác bừa bãi gây ảnh hưởng đến mọi người . Hãy chấm dứt những hành vi kém văn hóa ấy để làm cho cuộc sống của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn . Và hãy sống theo tinh thần cao đẹp : “Mình vì mọi người , mọi người vì mình ”
3. TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ - VẤN NẠN CỦA HỌC ĐƯỜNG!
-Những trò chơi giải trí để bớt căng thẳng mà trò chơi điện tử chính là lựa chọn đầu tiên của học sinh và rồi trò chơi điện tử đã trở thành vấn nạn của học đường.
- Bây giờ trong đầu thanh thiếu niên đầy ắp những trò chơi điện tử, nào là: đua xe tốc độ, võ lâm truyền kỳ, đá bóng, đột kích… và hàng ngàn trò chơi khác. Cũng phải thôi vì nếu không đến với trò chơi điện tử thì liệu họ có còn cách nào để giải toả căng thẳng không khi mà những trò chơi dân gian ngày nào đang dần mất đi, những khoảng không gian không còn. Như vậy có nghĩa trò chơi điện tử đã đem lại lợi ích cho con người nhưng mấy ai đã nhìn thấy mặt trái của nó .
- Nhiều bạn vì suốt đêm ngồi chơi điện tử mà lên lớp lại ngủ gà ngủ gật.Tình trạng ấy thật đáng báo động biết bao. Có biết bao trường hợp, từ những học sinh giỏi mà các bạn dần tụt xuống khá hoặc thậm chí là cả trung bình chỉ vì mải chơi các trò chơi điện tử. Nhiều bạn vì mê chơi mà cãi lại cha mẹ khi bị mắng hoặc bị buộc phải ở nhà, nhiều bạn vì không có tiền đi vào quán Internet mà đi trộm cướp để lấy tiền. Bêm cạnh đó không ít bạn lại bỏ nhà đi bụi chỉ vì bố mẹ không chịu nổi cảnh con mình suốt ngày ngồi bên bàn máy tính vì còn nhiều những tai hoạ khôn lường mà ta chưa kể đến.
-Dẫu biết rằng trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn nhưng nếu sa đoạ thì đó lại là một con dao hai lưỡi. Hãy biết dừng lại ở đúng giới hạn, đừng để một ngày mình phải hói hận chỉ vì một trò chơi tiêu khển tầm thường bạn nhé!
4. HIỆN TƯỢNG "NGHIỆN" INTERNET TRONG NHIỀU BẠN TRẺ HIỆN NAY.
- Các nhà tâm lý học ở nhiều quốc gia đang lưu ý đến tình trạng khẩn cấp phải đối phó của một chứng tật ham mê mới, đó là nghiện Internet.
-Với nhiều người, Internet là một thứ không thể thiếu; một thói quen không kiểm soát nổi. Bốn triệu chứng nghiện Internet chính là: quên thời gian,sao lãng ăn uống và ngủ; tức giận, căng thẳng, bồn chồn khi không thể lên mạng; cần trang bị máy tính mạnh hơn, nhiều phần mềm mới; biểu hiện trầm cảm, hay cáu giận và tách biệt với xã hội. Nghiện Internet - một hành vi gây căng thẳng cho cuộc sống của chính nạn nhân và cho cả gia đình, bạn bè, đồng nghiệp - là một căn bệnh tâm lý đang lan tràn trên toàn thế giới.
-Internet mang theo cùng nó những lợi ích nhưng cả các tác hại. Trong đó có tình trạng vì quá mê mệt Internet mà các con nghiện xao lãng chuyện học hành, thậm chí bỏ học. Họ giảm tiếp xúc với gia đình, bè bạn, sống cô lập trước màn hình máy tính, lặn vào những "chatroom" hay chơi những trò chơi bạo lực. Các con nghiện Internet thường đau khổ vì trầm uất, sợ sệt và không sẵn lòng giao tiếp với người khác, gặp trục trặc trong cách hành xử hay thiếu tự tin chỉ bị cơn nghiện.
5. Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
-Trong những năm gần đây, có thể nhận thấy tình hình trật tự ATGT ở nước ta có nhiều biến phức tạp, đặc biệt là trên lĩnh vực giao thông đường bộ. Tính chất TNGT ngày càng nghiêm trọng hơn.Vậy là thế hệ tuổi trẻ, là thế hệ mai sau của đất nước, chúng ta phải làm thế nào để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
-Tai nạn giao thông và những thiệt hại do tai nạn gây ra đang là nổi lo và vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Đó là thiệt hại về sinh mạng, thiệt hại về nhân lực, trí tuệ, gây tổn thương về tinh thần xã hội, về vật chất, tiền của và cả nỗi đau thể xác, tinh thần dai dẵng
- Nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn phần lớn là do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân: uống rượu bia vượt quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, chở trên ba người phóng nhanh vượt ẩu... Tất cả những nguyên nhân gây ra tai nạn đều bắt nguồn từ ý thức của người dân. Nếu như họ biết quý bản thân mình, biết tuân thủ luật lệ giao thông thì sẽ chẳng có những điều thương tâm và đáng tiếc. Hồi chuông cảnh báo luôn rung lên, nhắc nhở mọi người hãy biết chấp hành giao thông, vì sự an toàn của bản thân và xã hội.
-Là một học sinh, mỗi chúng ta phải xem xét lại mình , chúng ta phải biết nhìn nhận phải tự giác làm đúng các nguyên tắc an tòan giao thông mà nhà trường và xã hội đã chỉ dẫn.
6. TÁC HẠI CỦA THUỐC LÁ
- Cả thế giới đang lo âu và chưa tìm ra giải pháp thì lại xuất hiện nạn thuốc lá. Có thể nó rằng bên cạnh các tệ nạn khác, thuốc lá đã gây ra tác hại rất lớn đối với đời sống con người.
- Hút thuốc lá ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người. Hút thuốc lá có thể gây ra bệnh về phổi, gan, tim, khoa học và thực tế đã chứng minh rằng nếu một người hút thuốc lá thường xuyên trong vòng nhiều năm thì tuổi thọ sẽ giảm đi rất nhiều so với những người không hút thuốc lá. Không chỉ cá nhân người hút mà hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải khói độc. Vợ con, những người xung quanh... cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, ung thư... đặc biệt người hít phải khói thuốc còn có khả năng bị bệnh cao gấp mười lần người hút thuốc. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.
-Nạn hút thuốc ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế mỗi người và nền kinh tế xã hội. Một người mới bắt đầu làm quen với thuốc lá có thể hút rất ít không tốn là bao nhưng thuốc lá rất dễ gây nghiện nên số lượng và số lần hút sẽ tăng lên một cách nhanh chóng. Vì vậy, số tiền đáng lẽ một người chồng cha mẫu mực phải lo cho gia đình, một cậu thanh niên dành quyên góp đồng bào lũ lụt... thì lại nướng vào hút thuốc lá.
- Nhiều thanh niên (trong đó có cả nữ) ngày nay muốn tỏ vẻ ta đây là người lớn, lên mặt đàn anh đàn chị bèn tìm đến thuốc lá. Họ coi lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc lá trên tay mới là dân sành điệu. Suy nghĩ vậy thực là nguy hiểm! Quả thuốc lá đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách con người. Từ điều thuốc đến cốc bia, đến ma tuý thực là khoảng cách không xa mấy. Mọi tệ nạn dường như đều có thể mở đầu bằng điếu thuốc.
- Thuốc lá - Môi trường ngỡ không liên quan đến nhau nhưng thực ra có liên quan mật thiết đến nhau. Hút thuốc lá, khói thuốc lá làm ô nhiễm môi trường. Bên cạnh khói nhà máy, khói xe cộ... khói thuốc lá hủy hoại môi trường sống, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
7. TÌNH YÊU TUỔI HỌC ĐƯỜNG
- Hiện tượng yêu ở tuổi học đường xảy ra ngày càng nhiều trong thời gian gần đây và nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì sẽ trở thành “hiểm họa” đối với thế hệ trẻ.
- Là hiện tượng phổ biến hiện nay.... các học sinh khác giới thường hẹn hò với nhau, có những tình cảm vượt quá mức bạn bè. Đây là tình cảm vô cùng đặc biệt nhưng đó chỉ là những tình cảm nhất thời, những rung động ban đầu của tuổi mộng mơ, nên có những chuyện hết sức nông nổi.
- Do mức sống ngày nay cao hơn ngày trước, được ăn uống đầy đủ nên sớm phát triển về mặt sinh lý. Do xã hội ngày nay có nhiều điều kiện để các bạn sớm tiếp xúc với những thông tin về yêu đương và tình dục qua các phương tiện nghe nhìn hiện đại, nhất là thông tin từ mạng internet đang ngày càng phổ cập.Do muốn thể hiện bản thân mình đã lớn.......
- Các bạn yêu nhau có những biểu hiện không được đẹp như khoác vai, ôm eo, hôn nhau trong lớp học gây phản cảm . Nhiều bạn chỉ lo yêu và kết quả là cả chàng và nàng đều học hành sa sút. Tệ hơn nữa còn có những bạn nông nổi, bồng bột bỏ nhà ra đi vì lí do chẳng giống ai. Đặc biệt biết bao cô học trò đã lỡ chân bước qua giới hạn của tình yêu trong sáng, để rồi nuối tiếc trong suốt con đường cuộc đời còn lại.
- Một số bạn khi yêu các bạn biết giúp đỡ nhau học tập để cả hai cùng tiến bộ . Có một tình yêu tuổi học trò như vậy thật đẹp và ý nghĩa!
-Vì vậy việc mà học sinh chúng mình nên làm không phải là cố kìm nén tình cảm hoặc dễ dãi với tình cảm ấy mà nên biết tập suy nghĩ chín chắn và có ý thức để những tình cảm tuổi học trò trở nên tốt đẹp và mang lại nhiều lợi ích!
8. MÔI TRƯỜNG SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT ĐANG BỊ Ô NHIễM TRẦM TRỌNG
-Hiện nay, môi trường sống trên trái đất đang bị ô nhiễm trầm trọng. Điều đó trở thành mối lo lắng chung cho các quốc gia vì ô nhiễm môi trường làm giảm chất lượng sống con người và làm biến đổi đặc điểm sinh thái trái đất.
-Thực vậy, hiện nay, mức ô nhiễm không khí đặc biệt ở các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp đã vượt mức tiêu chuẩn cho phép. Không khí ở những nơi này bị nhiễm bụi, nhiễm các khí thải độc hại .Nguồn nước cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Rác thải, chất thải đang gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ độc hại… Vì vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay đã lên tới mức báo động, trở thành hiểm họa chung cho toàn cầu.
-Nguyên nhân chính của hiện tượng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng cao bắt nguồn từ chính con người. Sự bùng nổ dân số và hậu quả nặng nề của nó đã để lại những tác hại to lớn đến môi trường sống. Sự thiếu Ý thức gìn giữ, bảo vệ môi trường trong nhiều người khiến nạn ô nhiễm tăng nhanh.
-Chính sự ô nhiễm môi trường đang gia tăng trên là tác nhân khiến cho sức khỏe con người ngày càng giảm sút. Nhiều loài sinh vật đang bị tiêu diệt khiến cho nguồn gen tự nhiên suy giảm, làm giảm đi sự phong phú đa dạng của tự nhiên. Đất đai bị bạc màu, không cho hiệu quả canh tác cao. Nguồn nước sạch ngày càng hiếm, là nguyên nhân cho bệnh tật và các cuộc chiến tranh giành nước. ...
-Môi trường của chúng ta đang kêu cứu, trách nhiệm gìn giữ, bảo vệ môi trường sống xanh sạch đẹp thuộc về tất cả mọi người. Đặc biệt, thế hệ trẻ càng cần tích cực hơn nữa trong việc bảo vệ, cải tạo môi sinh trên trái đất. Nếu không làm tốt việc bảo vệ môi trường, các thế hệ tương lai sẽ chẳng còn không gian trong lành để sống
9. VAI TRÒ CỦA RỪNG VÀ VIỆC BẢO VỆ RỪNG
-Rừng đã được coi là tài sản quí báu vào bậc nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
-Trước hết, rừng là nguồn cung cấp nhiều loại lâm sản cần thiết cho cuộc sống.Rừng còn cung cấp cho ta những sản vật quí hiếm. Nhiều loại cây cỏ của rừng là những vị thuốc đem lại sức khỏe và sự sống cho con người. Không sao kể hết những nguồn lợi mà rừng đem lại.Rừng còn giữ vai trò điều hòa khí hậu, bảo vệ sự sống. Rừng cây xanh bạt ngàn là lá phổi khổng lồ thanh lọc không khí, cung cấp nguồn dưỡng khí duy trì sự sống cho con người. Rừng giúp con người hạn chế thiên tai. Đặc biệt, rừng là khu bảo tồn thiên nhiên vô giá với hàng ngàn loài chim, loài thú quí giá, là nguồn đề tài nghiên cứu bất tận cho các nhà sinh vật học. Rừng ngập mặn là bức tường thành ngăn chặn bão gió, sóng thần, lũ lụt,..
- Rừng đem lại nhiều lợi ích như thế nên con người ra sức khai thác nguồn lợi quí giá từ rừng.Khai thác rừng để phục vụ cuộc sống con người là việc làm cần thiết, nhưng muốn hưởng lợi ích lâu dài thì con người cần phải biết bảo vệ rừng. Cùng với việc chặt cây lấy gỗ, chúng ta phải biết trồng cây, gây rừng. Khai thác lâm sản cũng phải có kế hoạch, có mức độ, nếu không, chẳng mấy chốc mà tài nguyên rừng cạn kiệt. Khi đó, thử hỏi con người lấy gì để chống đỡ với gió, cát, nước lũ, … và lấy đâu ra rừng vàng biển bạc cho con cháu mai sau?
10. BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG
- Bạo lực học đường đã trở thành một vấn đề nóng bỏng, một vấn nạn nhức nhối khiến mọi người không khỏi bàng hoàng, kinh ngạc.
- Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, ngang ngược, bất chấp công lý, đạo lý, xúc phạm trấn áp người khác gây nên những tổn thương về tinh thần và thể xác diễn ra trong phạm vi trường học.
- Biểu hiện của hành động bạo lực học đường có thể xảy ra dưới nhiều hinh thức như: Xúc phạm, lăng mạ, xỉ nhục, đay nghiến, chà đạp nhân phẩm, làm tổn thương về mặt tinh thần con người thông qua lời nói; Đánh đập, tra tấn, hành hạ, làm tổn hại về sức khỏe, xâm phạm cơ thể con người thông qua những hành vi bạo lực.
- Xảy ra vì những lí do :- Sự phát triển thiếu toàn diện, thiếu hụt về nhân cách, thiếu khả năng kiểm soát hành vi ứng xử của bản thân, non nớt trong kĩ năng sống, sai lệch trong quan điểm sống.- Do ảnh hưởng từ môi trường văn hóa bạo lực: phim, ảnh, sách, báo, đồ chơi mang tính bạo lực (kiếm, súng...) - Sự giáo dục chưa đúng đắn, thiếu quan tâm của gia đình; tình trạng bạo lực trong gia đình cũng là một phần nhân tố ảnh hưởng không tốt. Và một khi bạo lực gia đình vẫn còn tồn tại thì bạo lực học đường sẽ vẫn còn có nguy cơ gia tăng. - Sự giáo dục trong nhà trường: nặng về dạy kiến thức văn hóa, đôi khi lãng quên nhiệm vụ giáo dục con người - Xã hội thờ ơ, dửng dưng, buông xuôi, chưa có sự quan tâm đúng mức, những giải pháp thiết thực, đồng bộ, triệt để.
-Hậu quả : nạn nhân tổn thương về thể xác và tinh thần; Tổn hại đến gia đình, người thân, bạn bè người bị hại; Tạo tính bất ổn trong xã hội: tâm lí lo lắng bất an bao trùm từ gia đình, nhà trường, đến xã hội. Còn người gây ra bạo lực phát triển không toàn diện, làm hỏng tương lại chính mình, gây nguy hại cho xã hội,bị mọi người lên án, xa lánh, căm ghét.
- Xã hội cần có những giải pháp đồng bộ, chặt chẽ giáo dục con người trong gia đình, nhà trường, trong toàn xã hội; coi trọng dạy kĩ năng sống, vươn tới những điều chân thiện mỹ.
Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013
Vẻ đẹp của các nhân vật nữ trong truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Đường Trường sơn - đông nắng, tây mưa ; một cái tên thôi cũng gợi cho ta về một thời lửa cháy, gợi hình ảnh đoàn quân cha trước con sau cùng hát khúc quân hành, gợi những đoàn xe ra trận vì Miền Nam thân yêu. Viết về những nẻo đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ, không chỉ có những bài thơ, bài ca ca ngợi những chiến sĩ lái xe hay những cô gái mở đường trong trang thơ của Lâm Thị Mĩ Dạ mà còn có những câu chuyện đầy cảm phục viết về những cô gái thanh niên xung phong, những cô trinh sát mặt đường, những cô chuyên phá bom nổ chậm mở đường cho xe qua. Những cô gái trẻ ấy đã được Lê Minh Khuê (một cây bút nữ xuất sắc của mảnh đất Xứ Thanh) kể lại và khắc hoạ chân dung tâm hồn tính cách. Ba cô gái trẻ là những ngôi sao xa xôi trên cao điểm Trường Sơn.
Ba cô thanh niên xung phong : Thao, Nho và Phương Định biên chế thành một tổ trinh sát mặt đường - cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng. Tổ trưởng là Thao, lớn tuổi hơn một chút so với Nho và Phương Định. Nhiệm vụ chính của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần san lấp, đánh dấu vị trí các quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ khi nào. Đặc biệt phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, công việc ấy diễn ra hàng ngày, thậm chí là năm lần trong ngày. Nơi ở của họ là một cái hang đá mát lạnh, ngay dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống và chiến đấu của ba cô gái trẻ giữa chiến trường, dù rất khắc nghiệt, nhưng họ vẫn bình thản, tươi vui, hồn nhiên và không kém phần lãng mạn. Đặc biệt họ rất yêu thương nhau, gắn bó với nhau trong tình đồng đội keo sơn, dù cho mỗi người một cá tính. Đặc biệt họ là những người có trách nhiệm tự giác rất cao, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ đư¬ợc phân công bởi công việc của họ không hề đơn giản. Công việc ấy đòi hỏi ở họ phải bình tĩnh, dũng cảm, khôn ngoan, nhạy cảm và kháo léo, đòi hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng hy sinh, không quản khó khăn gian khổ bởi chẳng có ai biết được quả bom câm lặng có khi đang ấm nóng dần lên, nằm chềnh ềnh ra đó và có thể nổ bất cứ lúc nào. Đố là những phẩm chất cao đẹp, bình dị, hồn nhiên của ba cô gái thanh niên xung phong, tuy nhiên mỗi người lại có những vẻ đẹp riêng của mình.
Chị Thao lớn tuổi hơn nên dự tính tương lai cũng thiết thực hơn, có ít nhiều từng trãi nên không dễ dàng hồn nhiên, mơ mộng như¬ng rất thích hát và ghi chép bài hát. Trong công việc rất bình tĩnh và quyết liệt vậy mà rất sợ máu và vắt. Những khi biết rằng cái sắp tới sẽ không êm ả chị lại tỏ ra bình tĩnh bằng cách móc bánh bích quy trong túi và thong thả nhai. Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu chị hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm nhưng ai cũng phải gờm chị : cương quyết, táo bạo.
Còn Nho lại là cô gái khác, có lúc bướng bỉnh, mạnh mẽ ; có lúc lầm lì cực đoan. Mỗi khi Nho tắm, trông cô như một que kem trắng mát lạnh, cái cổ tròn và những cúc áo nhỏ nhắn. Cứ quần áo ướt, Nho ngồi đòi ăn kẹo. Đặc biệt cô có sở thích thêu hoa rực rỡ, loè loẹt trên khăn gối. trong một lần phá bom Nho bị thương, chị Thao và Định hết lòng chăm sóc. Định rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than. Bông băng trắng, pha sữa vào một cái ca sắt cho Nho. Còn chị Thao thể hiện rõ sự quan tâm của mình qua câu nói : "Cho nhiều đường vào, pha đặc". Tình cảm quay cuồng trong chị. "Chị cứ đưa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cái cổ áo, cái ve áo và tóc nó. Chị không khóc đó thôi, chị không ưa cả nước mắt". Qua việc Nho bị thương, chúng ta thấy rõ được tình cảm mà các cô đã dành cho nhau, đã gắn bó với nhau sâu sắc đến mức nào.
Nhân vật chính cũng là nhân vật kể chuyện là Phương Định. Phương Định là cô gái Hà Nội trẻ trung và xinh xắn. Hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Các anh lái xe thường bảo : "cô có cái nhìn sao mà xa xăm". Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tôi thích ngắm mắt tôi trong gương. Nó dài dài, màu nâu, hay nheo lại như chói nắng. Vốn là một nữ sinh hồn nhiên nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, cô vào chiến trường. Giữa cuộc sống khắc nghiệt và muôn vàn nguy hiểm, cô vẫn giữ được sự trong sáng trong suy nghĩ, lối sống cả trong công việc. Cô có tâm hồn trong sáng, vô tư, giàu mộng mơ, thích ca hát, hay hoài niệm về một thời học sinh ngây thơ bên mẹ, trong căn phòng nhỏ ở một đường phố nhỏ yên tĩnh trong những ngày trước chiến tranh. Những kỉ niệm êm đềm ấy sống lại trong trí nhớ của Định, giữa chiến trường dữ dội làm dịu mát tâm hồn cô. Vào chiến trường đã ba năm, Định đã quen với đạn bom, hiểm nguy, vượt qua bao gian lao vẫn không làm mất đi ở cô cái hồn nhiên, vô tư lự. Cô giàu cảm xúc và thường làm điệu trước những anh lính trẻ. Thực ra trong những suy nghĩ của cô, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ. Định rất yêu mến và gắn bó với đồng đội của mình. Khi chị Thao ngã vội đỡ chị dậy, chăm sóc Nho khi bị thương, cô cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cô đã gặp trên tuyến đường Trường Sơn. Đồng thời Phương Định cũng là cô gái rất kín đáo trong tình cảm. Có lẽ điều đáng quí nhất ở Phương Định chính là tinh thần, trách nhiệm với công việc. Mỗi lần đi phá bom, cô đều xung phong đi, cô luôn đứng trong tư thế sẵn sàng, chấp nhận gian khổ, hi sinh, có lòng dũng cảm không quản khó khăn, luôn bình tĩnh tự tin trước mọi tình huống. Những phẩm chất cao đẹp của Phương Định, của Thao, Nho đã được khắc hoạ bằng sự am hiểu tâm lí giới tính của Lê Minh Khuê. Thành công về xây dựng nhân vật còn được đóng góp bởi ngôn ngữ trần thuật tự nhiên, hấp dẫn dưới ngôi kể thứ nhất, những câu ngắn, nhịp nhanh, giọng điệu gắn liền với ngôn ngữ đời thường, vừa trẻ trung vừa giàu nữ tính. Từng là Thanh niên xung phong nên có lẽ Lê Minh Khuê mới hiểu biết sâu sắc công việc và đời sống tình cảm tâm hồn của những nữ thanh niên xung phong đến như vậy. Truyện khép lại khi một trận mưa đá bất ngờ đổ xuống cao điểm khiến các cô gái trẻ hết sức vui thích.
Truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó cũng chính là những hình ảnh đẹp, tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật trong Những ngôi sao xa xôi chính là Đặng Thuỳ Trâm và Nguyễn Văn Thạc ngoài đời. Họ đã góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Vì thế hệ trẻ Việt Nam ngày hôm nay phải sống cho đẹp, cho có ích để bao xương máu của những anh hùng, liệt sĩ đã không đổ xuống vô ích, để đất nước Việt Nam ngày càng tươi đẹp hơn.
Khát vọng sống của nhà thơ Thanh Hải qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ”- Ngữ Văn 9- tập 2 .
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết :
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình
Lẽ sống cao đẹp ấy đã trở thành lí tưởng trong bài ca cuộc đời của biết bao thế hệ những con người Việt Nam anh hùng. Và khi bước vào ngưỡng cửa của thi ca thì “Sống là cho và chết cũng là cho” cũng chính là niềm khao khát cháy bỏng trong tâm hồn mỗi thi nhân.Trong số đó, ta không khi nào quên nhắc đến tiếng hát nhẹ nhàng ,sâu lắng ,tha thiết của khát vọng với cuộc đời, với đất nước trong thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ được thơ Thanh Hải viết tháng mười 11 năm 1980 .
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải sáng tác trước khi nhà thơ qua đời một tháng .Trong tâm lí nặng nề, sức khoẻ và bệnh tật mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao để rồi mang đến cho cuộc sống một tình yêu, một nỗi niềm thiết tha với quê hương đất nước và cùng theo đó là ước nguyện chân thành được cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ Quốc thân yêu.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Từ hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, tác giả đi đến với ước nguyện được làm một Mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời, cho đất nước non sông. Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ là một bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, sinh động với sự hoà quện tuyệt vời giữa sắc màu và âm thanh. Đó là dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, đó là lộc giắt đầy quanh lưng và lộc trải dài nương mạ .Và còn là tiếng hát trong trẻo của loài chim chiền chiện, loài chim cất tiếng hót báo hiệu tin vui, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho con người. Tất cả mọi sự vật, thiên nhiên đều được tác giả nâng niu, trân trọng, không muốn những gì đẹp đẽ, tinh khiết nhất của mùa xuân tan biến : Tôi đưa tay tôi hứng - Hứng những giọt long lanh trong vắt của tiếng hót say sưa từ trời xanh rơi xuống. Tiếng chim hót vang trời xuân kia, bằng tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, bằng tấm lòng thiết tha yêu mến cuộc sống tươi đẹp này, với Thanh Hải đã thành giọt long lanh hữu hình cụ thể để mà nâng niu gìn giữ mãi sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Bằng sự kết hợp hài hoà giữa âm thanh và màu sắc cùng lối nói đảo ngữ ẩn dụ, tác giả đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh mùa xuân, rất đặc trưng cho đất trời xứ Huế.
Từ xúc cảm say sưa ngây ngất trước mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ bồi hồi nhớ tới mùa xuân của đất nước, của cách mạng, đó là mùa xuân của những con người cầm súng và ra đồng. Lộc non trên lưng người ra trận chính là sức mạnh dân tộc, lộc trải dài nương mạ là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng mới,cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh. Người cầm súng và người ra đồng là hai lực lượng chính thực hiện nhiệm vụ của đất nước lúc bâý giờ, đó là chiến đấu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Ý thơ càng sâu sắc : Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi cho dân tộc.
Cũng từ đó tác giả tự hào nghĩ về đất nước thân yêu với bốn ngàn năm trường kì lịch sử cùng bao nỗi vất vả gian lao mà nhân dân đã phải trải qua. Song dù có biết bao thử thách, đất nước Việt Nam, con người Việt Nam vẫn như vì sao sáng mãi đi lên, mãi tiến lên phía trước biết ơn và tự hào về biết bao thế hệ những người con anh hùng đã chiến đấu và hy sinh thân mình để giành lấy tự do cho dân tộc, cơm áo cho nhân dân, nhà thơ Thanh Hải đã đi đến ước nguyện chân thành :
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Con chim hót – một nhành hoa- một nốt nhạc trầm tất cả hoà quện với nhau làm nên một mùa xuân nho nhỏ. Không ước ao một điều gì lớn lao to tát, nhà thơ chỉ mong ước được làm những gì có ích, để cống hiến cho cuộc đời này dù ở bất cứ lứa tuổi nào. Tác giả nói riêng hay những con người Việt Nam nói chung đều luôn sống với khát vọng hiến dâng chân thành tha thiết nhất. Con chim nhỏ cất tiếng hót vui cho đời, nhành hoa bé khoe sắc làm đẹp cho cuộc sống, nốt nhạc trầm làm xao xuyến lòng người, nhắc người ta hãy sống cho tất cả, sống cho tình nhân ái bao la và sống để cống hiến toàn vẹn cho cuộc đời. Ước nguyện ấy của nhà thơ chân thành, tha thiết quá ! Phải chăng đây chính là điều mong ước tột cùng đã đi theo tác giả suốt cuộc đời ? Cho nên đến giây phút cuối cùng dù biết rất có thể ngày mai đây sẽ từ biệt cõi đời này mãi mãi nhưng ở khổ thơ cuối, tiếng hát được cất lên bởi một tâm hồn đang tràn trề tình yêu thương và hy vọng .
Giai điệu mà nhà thơ muốn cất lên chính là điệu hát truyền thống của xứ Huế văn hiến, thân thương dịu hiền.
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế .
Khúc Nam ai, Nam bình là điệu nhạc buồn thương, dịu dàng trìu mến mà tự bao đời nay, người dân xứ Huế vẫn hát để gợi nhắc lòng người nhớ về nghĩa tình thuỷ chung, nhớ về tình yêu quê hương đất nước. Non nước Việt Nam cũng như đất trời xứ Huế tươi đẹp quá ! Một câu hát truyền thống sẽ đi mãi cùng trái tim một người con đã suốt đời chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, đến giây phút cuối cùng vẫn còn mong mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hương đất nước.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ vừa tạo nên một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp với sự nảy nở sinh sôi, với sức sống bền bỉ mãnh liệt của vạn vật lại vừa là tiếng hát nhẹ nhàng tha thiết, sâu lắng về khát vọng cống hiến cho đất nước của nhà thơ Thanh Hải. Có lẽ chính vì sự nhịp nhàng trong ngôn từ và cái bồi hồi mãnh liệt của khát vọng mà bài thơ vẫn mãi nhẹ nhàng thấm vào lòng người và trở thành một lời nhắn nhủ ân tình với người đọc.
Sự thành kính thiêng liêng của Viễn Phương trong bài thơ Viếng lăng Bác.
Nhà thơ Cu-Ba F.Đờ-ri-gết đã từng ca ngợi : "Hồ Chí Minh - tên người là cả một miền thơ". Vâng, quả đúng vậy ! Được viết về Người là niềm vinh dự lớn lao cho thế hệ những người cầm bút. Một dòng sông thi ca viết về Con người đẹp nhất ấy chảy dạt dào hơn mấy chục năm qua. Người đi vào trong thơ từ buổi đầu Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên, là người lính già trong chiến dịch Việt Bắc với nhiều đêm hành quân không ngủ trong thơ Minh Huệ. Và Người toả sáng làm ấm lòng những đứa con đất Việt trong giờ phút về "Viếng lăng Bác" - Viễn Phương. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân và bè bạn quốc tế. Viếng lăng Bác là một bài thơ ngắn đầy cảm động, thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn, tự hào, lẫn nỗi xót xa khi tác giả từ Miền Nam ra viếng Bác.
Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhà thơ đứng trước lăng Bác:
"Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa xa đứng thẳng hàng".
Viễn Phương xưng với Bác là "con", đó là cách xưng hô trong gia đình, với người lớn tuổi, là lời xưng hô thật gần gũi thân thương và kính trọng. Các nhà thơ Tố Hữu, Thu Bồn đã từng xưng hô như thế.
"Ở miền Nam" - cụm từ định danh tạo cho bài thơ một sắc thái tình cảm mới. Nói rằng đứa con Bác thương nhớ nhất, bây giờ mới được gặp Người đây.
Tác giả nhấn mạnh nỗi nhớ thư¬ơng mong chờ, ấp ủ bấy lâu nay, bây giờ được gặp, được thăm Bác. Tình cảm thổn thức trào dâng không thể nào diễn tả nỗi trong lòng những đứa con đất thành đồng Tổ quốc. Nhan đề bài thơ được dùng đúng với nghĩa đen của nó, khẳng định Bác đã qua đời. Còn ở câu thơ đầu tiên lại là "thăm lăng Bác", với ngụ ý nói giảm, Bác trở nên thân mật, gần gũi và sống mãi trong lòng nhân dân Miền Nam. Quanh lăng Bác trồng rất nhiều tre. Tre là hiện thân cho những gì mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất nhất, cũng như những con người Việt Nam vậy. Dù cho "bão táp mưa xa" vẫn "đứng thẳng hàng", có nghĩa là dù qua bao gian lao vất vả nhưng người Việt Nam vẫn không bao giờ chịu khuất phục, luôn đoàn kết với nhau để làm nên những chiến công hiển hách. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ đối với Bác kính yêu.
Chúng ta hãy đọc khổ thơ thứ hai và ba của bài thơ :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bác nằm trong lăng, giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Mặt trời một cách sáng tạo mới mẻ của Viễn Phương, cùng với điệp từ "ngày ngày", "mặt trời trong lăng" đã được vĩnh viễn hoá, bất tử hoá thành hình tượng Bác Hồ trong lòng mọi người, giữa thiên nhiên, vũ trụ. Mặt khác để ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời bể của Bác đối với nhân dân Việt Nam. Bác đã chiếu sáng cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của đêm trư¬ờng nô lệ. Tác giả không dùng "đoàn người, tốp người" mà dùng "dòng người", cùng với từ láy "ngày ngày" thể hiện hình ảnh này đã trở thành qui luật đều đặn, thể hiện tấm lòng thành kính của nhân dân Việt Nam, của bạn bè bốn phương đối với Bác. Mỗi người thăm Bác lúc bấy giờ là đại diện cho những tấm gương điển hình tiên tiến trên mặt trận chiến đấu, là những người con ưu tú, là những bông hoa tươi thắm kết thành một "tràng hoa" để dâng lên Người. "Bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ, khẳng định sự trường tồn, bất tử như mùa xuân vĩnh viễn, tràn đầy sức sống.
Sang tới khổ thơ thứ ba, chúng ta thấy hiện lên một giấc ngủ bình yên, thanh thản. "Cả cuộc đời Bác có ngủ yên đâu". Với Bác được ngủ bình yên khi :
"Việc quân, việc nước bàn xong
Gối khuya yên giấc bên khung trăng nhòm".
Với Viễn Phương, Bác ngủ bình yên nghĩa là Bác vẫn còn sống, được nghỉ ngơi, giấc ngủ đến với Người nhẹ nhàng, thanh thản bởi lúc này, nước đang tràn ngập niềm vui chiến thắng, ước nguyện của Người đã trở thành sự thật. "Vầng trăng" là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho lòng nhân ái, đức độ, tâm hồn Bác. Đồng thời, gợi vầng trăng tri kỉ đã từng gắn bó với Bác, thể hiện tâm hồn Bác hoà hợp với tình yêu thiên nhiên. "Trời xanh" cũng là một hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho hình ảnh bất tử của Bác. "Bác còn sống mãi với non sông đất nước". Bác đã hoá thân vào thiên nhiên, đất nước. Cặp từ quan hệ "vẫn biết… mà sao" thể hiện sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ của tác giả - "nhói", tình cảm ấy cũng là tình cảm chung của nhân dân khi Bác ra đi "đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa". Mạch cảm xúc từ thành kính chuyển thành tiếc thương, làm cho thơ Viễn Phương có lối viết hàm súc, câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Đến với khổ thơ cuối cùng ta thấy được những ước nguyện chân thành của tác giả khi sắp phải rời xa Bác :
Mai về Miền Nam dâng trào n¬ước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả h¬ương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
"Mai về Miền Nam" nghĩa là phải xa Bác, xa tất cả những gì nhà thơ ấp ủ, ước ao từng ngày. Ông như không kìm nén nổi nữa, bật thành niềm thương cảm "trào nước mắt". Nếu như đằng sau những câu thơ này tiếp tục diễn tả sự đau xót, tiếc thương thì bài thơ sẽ đem đến cho người đọc một cảm giác bi lụy. Thế nhưng từ cái đau thương, Viễn Phương đã thể hiện lòng thành kính, biết ơn Bác bằng những ước nguyện chân thành của mình. "Muốn làm" con chim mang đến niềm vui cho Bác, làm hoa để làm đẹp, toả hương thơm và là cây tre trung hiếu, trung thành, thuỷ chung, ân nghĩa canh cho giấc ngủ của Người mãi mãi bình yên. đứa con ra đi nhưng tấm lòng vẫn luôn ở bên cha
Bài thơ là nén hương thơm của những đứa con phương xa, ở đất Thành đồng Tổ quốc kính dâng lên Người với tấm lòng tha thiết yêu thương vô hạn. Đồng thời đó còn là tiếng nói cảm xúc chân thành ngợi ca Bác, bày tỏ sự thành kính thiêng liêng, niềm thuỷ chung son sắt của nhà thơ và cũng là của nhân dân Việt Nam đối với Bác - vị Cha già vô vàn kính yêu của dân tộc.
Xin được cùng gìn giữ
Hạnh phúc này thơ ơi
Là người con trung hiếu
Được gác với đêm rằm
Bức tranh thu qua cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu” (Ngữ văn 9 - Tập 2).
Nếu mùa xuân là một hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ…, thì mùa thu lại là mùa quyến rũ lòng người bởi nét đẹp của buổi chiều với sắc lá vàng bay và hương vườn quen thuộc, nhẹ nhàng, thướt tha, đằm thắm… Cùng với mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài truyền thống của thơ ca. Thu đi qua lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ và là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người, là chất men để lòng người đắm say mê mải. Khác với các thi nhân khi viết về mùa thu thường là độ giữa thu hay cuối thu, nhà thơ Hữu Thỉnh góp một tiếng thu giao mùa. Truyền thống và sáng tạo là sự kết hợp hài hoà trong thơ Hữu Chỉnh. Cùng đi với “Sang thu”, ta sẽ thấy rõ điều đó.
Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra những biến chuyển rất nhẹ nhàng của đất trời khi mùa thu đến mà nếu như với những bộn bề công việc, người ta rất khó có thể nhận ra. Với bài thơ “Sang thu” (1977), Hữu Thỉnh đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bức tranh thu với những mới mẻ, sáng tạo, đầy ắp hơi thở của sự sống.
Khổ thơ thứ nhất là những dự cảm mùa thu đã về :
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Trong biết bao nhiêu hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình thảng thốt khi nhận ra cái làn hương ngây ngất ngọt ngào của trái ổi đầu mùa. Hương ổi thân thương qua như chính mùi vị của vườn, làng quê nơi đồng bằng bắc Bộ yêu thương hương ổi là tín hiệu đặc trưng của mùa thu. Phải chăng lúc này đây thu đã sang ? Nhưng tại sao sứ giả của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh lại là làn hương ngọt ngào của trái ổi đầu mùa mà không phải là hương hoa thiên lí như trong bài thơ Nguyễn Bính Mùi hoa thiên lý thoảng hương đưa (Chiều thu).
Hay hương cốm trong bài thơ “Đất nước”
Sáng mát trong như sáng năm x ưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
(Nguyễn Đình Thi)
Hương ổi có nét gì đặc biệt đến thế, phải chăng mùi hương ấy là nét riêng của làng quê Bắc Bộ, phải chăng nó gọi về trong tâm trí tác giả bao nhiêu kỉ niệm êm đềm cùng bạn bè treo cây hái ổi của một thời tuổi trẻ đã qua ? Chẳng thế mà hương ổi không phải chỉ một lần xuất hiện trong thơ ông :
Hẹn mùa thu ổi chín
Đón mùa khô bước vào
(Hương vườn)
Từ bỗng như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về ? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ mới chợt nhận ta hương ổi :
Phả vào trong gió se
Động từ “phả” sử dụng trong câu thơ mang đầy ý nghĩa. Liệu có thể thay thế từ ngữ ấy bằng một số từ khác như “thoảng, toả, lan…” thôi cũng đã mang lại cho hương ổi một sức mạnh vô hình nào đó để có thể tràn ngập trong không gian, có sức lan toả về mặt cảm xúc. Động từ “Phả” nhờ nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã đem đến cho bức tranh giao mùa một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ.
Hương ổi từ đó mà lan toả mãi trong không gian và rồi được cuốn trong gió se là cơn gió heo may khô lạnh đầu mùa. Gió se tràn về xua tan đi bao oi bức nóng nực của mùa hè, đem lại cho con người cảm giác thoải mái dễ chịu.
Trong cái dư vị ngây ngất của trái ổi đầu mùa, nhà thơ nhận thấy :
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Hai câu thơ mang âm hưởng thật nhẹ nhàng. Màn sương qua từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hoá như vẻ duyên dáng của nàng thiếu nữ đôi mươi. Màn sương ấy hiện ra trong mờ mờ ảo ảo như sắc màu cổ tích khiến cho cảnh vật nơi làng quê ngõ xóm trở thành một thế giới thần kì tuyệt diệu. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh màn sương trong Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu :
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ …
Và câu thơ Hình như thu đã về đã kết lại dòng xúc cảm bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả những tín hiệu ở trên cuối cùng rồi cũng đi đến một nghi vấn : thu đã về ? Từ “Hình như” diễn tả sự ngỡ ngàng thảng thốt, thu đến với đất trời thật rồi sao ?
Từ điểm nhìn cận cảnh, cùng sự quan sát tinh tế, cảm nhận dấu hiệu thiên nhiên bằng khiếu giác (hương ổi), xúc giác (gió se) và thị giác (màn sương), nhà thơ Hữu Thỉnh đã chứng tỏ một hồn thơ tinh tế nhạy cảm khi cẩm nhận tiết giao mùa nơi làng quê thanh bình.
Nếu như khổ thơ thứ nhất là cảm xúc đột ngột, ngỡ ngàng khi nhận ra thu đang về với đất trời thì đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã nhìn rộng hơn trong việc quan sát cảnh vật thiên nhiên :
Sông đựoc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nữa mình sang thu
Từ khung cảnh chật hẹp nơi làng quê, nhà thơ đã dần hé mở thêm cho không gian cả chiều cao, chiều rộng, lẫn chiều sâu. Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên đất trời lúc sang thu. Đầu tiên, nhà thơ quan sát sự vật ở tầng thấp :
Sông được lúc dềnh dàng
Chất liệu thực ra thật rõ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ngềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “đựơc lúc" diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt.
Từ láy gợi hình “dềnh dàng” chỉ sự chuyển động chậm chạp. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế.
Tuy nhiên, dòng sông trở nên chậm chạp hơn khi thu sang, không không đồng nghĩa với sự vật nào cũng như vậy. Ta hãy đọc câu thơ tiếp theo : Chim bắt đầu vội vã.
Cón gió heo may lãnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng><vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý : cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.
Và ở hai câu thơ tiếp theo, không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới :
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế.
Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt ” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giửa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu.
Trong bài thơ “Chiều sông thương", Hữu Thỉnh cũng đã có những ý thơ tưong tự :
Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về bố hạ
Cùng viết về mùa thu ở làng quê, Nguyễn Khuyến – nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam cũng đã từng viết :
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Thu điếu)
Có lẽ cũng như Nguyễn Khuyến, mùa thu và làn quê như một phần máu thịt trong con người Hữu Thỉnh. Ông đã viết rất nhiều về mùa thu :
Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng câu quan họ
Chiều tím bờ sông thưong
(Chiều sông thương)
Ta hãy đọc khổ thơ cuối cùng :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng độ nóng, độ chói không còn gay gắt. Cơn mưa nhẹ hạt hơn so với trận mưa rào xối xả những ngày hè đã qua. Sấm bất thình lình nổi trận lôi đình, hàng cây như già dặn hơn.
Đó là những gì mà nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận được về các hiện tượng thiên nhiên khi thu sang.
Nhưng “nắng, mưa, sấm” làm sao có thế cân, đo ấy thế mà Hữu Thỉnh với các từ ngữ “Vẫn còn bao nhiêu, vơi, bớt” mang tính chất giảm nghĩa, nhà thơ đã biến chúng thành các vật có trọng lượng thực sự để đối chiếu so sánh với mùa hè.
Từ sự hiện thực quan sát thiên nhiên ta có thể phát hiện ra đựoc một triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm. "Nắng, mưa, sấm" là những hình ảnh ẩn dụ cho sự khắc nghiệt và biến chuyển của cuộc đời, "hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải. Cả đoạn mang ý nghĩa : con người từng trải luôn vững vàng trước những biến đổi cuộc đời. Phải chăng nhà thơ đang gợi chúng ta nhớ về truyền thống cao đẹp của người dân Việt nam và những trải nghiệm ở đời qua thử thách, qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc, đó là hành trang để thế hệ trẻ hôm nay bước vào đời.
Đọc Sang thu, ta không chỉ cảm nhận được những khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ mà còn thấy được tâm hồn tinh tế nhạy cảm, tấm lòng yêu thiên nhiên cùng biết bao học triết lí, kinh nghiệm sâu sa ; chúng ta ở đời đâu phải luôn chủ động và tự tin để có thể vượt qua mọi thử thách, sóng gió của cuộc đời Sang thu của Hữu Thỉnh không còn tính chất cổ điển, ước lệ tượng trưng như thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu mà sẽ sống mãi trong lòng người đọc với những nét mới mẻ sáng tạo của một tiếng thu đầy ắp hơi sự sống.
PHÂN TÍCH TÌNH CHA CON TRONG BÀI THƠ NÓI VỚI CON, NGỮ VĂN 9, TẬP II
Thơ Y Phương hồn nhiên mà trong sáng, chân thật mà mạnh mẽ như một bức tranh thổ cảm đan dệt những sắc màu phong phú và đa dạng, nhưng trong đó luôn có một màu sắc chủ đạo, là bản sắc dân tộc đậm nét và độc đáo. Nói với con là một bài thơ hay của nhà thơ. Bài thơ như là một khúc tâm tình của người cha, thể hiện lòng yêu thương con của người miền núi và mong ước thế hệ con cái phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Xưa nay, tình cha con luôn là một tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Yêu thương con, người cha luôn có rất nhiều điều muốn nói với con. Trong bài thơ, điều đầu tiên người cha muốn nhắc nhở con của mình, đó là cội nguồn hạnh phúc của con người chính là gia đình, quê hương. Ngay từ bốn câu thơ đầu, tác giả đã gợi ra một hình ảnh gia đình đầm ấm hạnh phúc. Người con chập chững bước từng bước đi trong mái ấm gia đình ấy. Cách liệt kê “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” khiến ta hình dung những bước đi của đứa con nhỏ. Cả ngôi nhà rung lên những tiếng cười của cha, của mẹ, của con... Rồi người con khôn lớn trưởng thành dần trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và trong nghĩa tình sâu nặng của quê hương. Tác giả đã có cách gọi độc đáo về những con người quê hương, một cách gọi thật gần gũi thân thương “người đồng mình”. Cách gọi ấy lại gắn liền với lời tâm tình rất tha thiết của cha với con “Người đồng mình yêu lắm con ơi”. Người cha đã lí giải để con có thể hiểu được “người đồng mình” đáng yêu thế nào. Họ sống rất đẹp, trong căn nhà của họ bao giờ cũng vang vọng tiếng hát: “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”. Các động từ “cài”, “ken” gây cảm giác quấn quýt thân thương, gợi một cuộc sống lao động êm đềm, vui tươi trong cảnh quê hương giàu đẹp nghĩa tình:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cách nhân hoá “rừng”, “con đường” cho ta cảm nhận thiên nhiên quê hương như người mẹ đã che chở, nuôi dưỡng tâm hồn đẹp đẽ của con người...
Đoạn thơ tiếp theo, người cha đã tha thiết nói với con về những phảm chất của con người quê hương. Cụm từ “người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về hình ảnh con người quê hương. Lời gọi con thật thiết tha, lời nhắn nhủ thật chân tình “Người đồng mình thương lắm con ơi”, người cha đã lần lượt ca ngợi những phẩm chất của “người đồng mình” với cách nói cụ thể, mộc mạc và độc đáo của người dân tộc miền núi. Người cha như giảng giải để cho đứa con hiểu về “người đồng mình”: Họ có thể có những nỗi đau buồn nhưng ý chí nghị lực luôn vươn lên “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. “Người đồng mình chấp nhận gian khó không sợ gian khổ nghèo đói. Điều đó được thể hiện trong điẹp từ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết yêu quý tự hào về quê hương. Nói với con về “người đồng mình”, người cha muốn nhắc nhở con phải sống thuỷ chung với quê hương, không chê quê hương dù quê hương có đói nghèo vất vả. Người cha tiếp tục nói với con về “người đồng mình” sống mạnh mẽ “như sông như suối dù có “lên thác xuống ghềnh” với cặp từ trái nghĩa “lên” “xuống” càng nhấn mạnh thêm ý chí của “người đồng mình”. Dùng những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như “sông”, “suối”, “thác”, “ghềnh” mang tính chất biểu trưng cho những khó khăn gian khổ và sức mạnh vượt khó khăn của những con người quê hương là một cách độc đáo để người cha tâm sự với con.
Phẩm chất của những con người miền núi còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong: “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/ Chẳng có ai nhỏ bé đâu con”.
“Người đồng mình” là vậy, không biết nói hay nói khéo, tuy mộc mạc chân chất, tuy “thô sơ da thịt” nhưng phẩm chất cao đẹp của họ, tâm hồn ý chí họ không bao giờ nhỏ bé. Vì thế, trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng để xứng đáng là “người đồng mình”. “Người đồng mình” xây dựng quê hương bằng chính sức lực và tính bền bỉ của mình:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Việc “đục đá” là khó, đòi hỏi phải có tinh thần ý thức cao, vậy mà “người đồng mình” đã làm được để rạng rỡ quê hương. Họ sáng tạo và lưu truyền những phong tục tập quán đẹp. Người cha đã tâm sự, đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh truyền thống quê hương.
Kết thúc bài thơ là lời dặn, lời khuyên của người cha đối với con. Đó là lời gọi trìu mến, lời nhắn nhủ thiết tha. Điều người cha dặn con thật ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc “Con ơi tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được/ Nghe con”. Người cha muốn nhắc nhở con là phải biết tự hào về những truyền thống quê hương, sống sao cho đẹp, xứng đáng với những phẩm chất của “người đồng mình” và phải tự tin vững bước trên đường đời, phải nhớ về cội nguồn dinh dưỡng, cội nguồn quê hương đất nước. Đó là cái lôi nuôi dưỡng con người khôn lớn trưởng thành. Thể thơ tự do, nhịp điệu lúc bay bổng nhẹ nhàng, lúc mạnh mẽ đã tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những thang bậc tình cảm khác nhau khiến lời người cha truyền thấm sang con.
Những phương tiện ngôn ngữ, những hình thức diễn đạt của người miền núi đã góp công lớn trong việc diễn tả tình cảm yêu thương con của người cha. Bài thơ đã góp phần tạo nên một tiếng nói riêng độc đáo về tình cảm gia đình, tình cảm quê hương trong làng thơ Việt Nam.
(Cao Thị Huyền Trang-Lớp 9H – THCS Cửa Nam – TP.Vinh – Nghệ An)
Đề :phân tích những câu thơ về quê hương trong " Nói với con"
Những câu thơ sau đây nói với em điều gì ?
“Ngưòi đồng mình yêu lắm con ơi
...
Con đường cho những tấm lòng.
( ... )
Người đồng mình thương lắm con ơi
...
Còn quê hương thì làm phong tục
(Y Phương - Nói với con, Ngữ văn 9 - Tập 2)
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai cũng quí cũng yêu”.
Ai cũng có một quê hương, nơi đầu tiên đón nhận tiếng khóc của ta và chào đón ta vừa lúc lọt lòng. Nghĩ về quê hương, trong mỗi người lại gợi lên một hình ảnh riêng nhất, đẹp nhất xen lẫn một niềm xúc cảm chân thành lẫn tự hào. Bởi thế, dù đã có rất nhiều người luôn nghĩ về quê hương mình, làm thơ về quê hương nhưng quê hương trong Nói với con của Y Phương vẫn mang lại cho ta niềm xúc động sâu lắng:
“Ngưòi đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lở cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
( ... )
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đã kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
(Y Phương - Nói với con, Ngữ văn 9 - Tập 2)
Có lẽ, ai cũng thế, những gì người ta thường gợi để nhớ về quê hương là những gì chân chất, mộc mạc, giản dị nhất. Nếu Đỗ Trung Quân gắn quê hương với hình ảnh “chùm khế ngọt”, “đường đi học”, là “con diều biếc” ... Thì người cha đã chỉ cho con :
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Con được trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là một vùng quê núi rừng còn chưa phát triển. Nhưng con người thì vô cùng đáng quý, đất đai giàu truyền thống văn hoá và nhất nữa, đấy là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn, tâm lòng chất phác thiện lương. Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể hiểu được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua các hình ảnh đẹp: “Đan lờ cài nan hoa. Vách nhà ken câu hát”. Các động từ “cài, ken” được dùng rất gợi cảm vừa miêu tả cụ thể công việc lao động của người miền núi, vừa nói lên sự gắn bó, quấn quýt. Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê hương giàu đẹp, nghĩa tình. Rừng núi quê hương thật thơ mộng và nghĩa tình. “Rừng cho hoa” là cho cái đẹp, một chữ “hoa” đủ nói lên vẻ thơ mộng của rừng núi quê hương. “Con đường cho những tấm lòng” là cho nghĩa tình, tâm hồn và lối sống. Rừng núi đâu chỉ là thiên nhiên, cây, đá mà còn là tình người, là những tấm lòng yêu thương gắn bó bên nhau Quê hương trong Nói với con có gì riêng nhưng cũng có cái gì đó rất chung..
Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất cao đẹp của con người quê hương qua cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con người quê hương. Lời gọi con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng mình thương lắm con ơi!”. Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu thương một cách xót xa. Người đồng mình thương lắm nhưng cũng lớn lao đầy khí phách trong cả nỗi buồn và chí hướng. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của “người đồng mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo nỗi buồn. Xa nuôi chí lớn” vừa mang sức khái quát: Lấy sự từng trải để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Câu thơ bốn chữ, nhưng đăng đối như tục ngữ, đúc kết một thái độ, một phương châm sứng xử cao quý. Các từ ngữ “ cao đo” hay “ xa nuôi” đã thể hiện một bản lĩnh sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam. Chính giọng điệu của đoạn thơ đã gieo vào lòng người những cảm xúc về những lời căn dặn đầy thân thương, chân thành, tha thiết. Dù hoàn cảnh sống có thế nào thì con người luôn phải vượt lên hoàn cảnh để mà sống. “Nỗi buồn” sẽ làm cho con người ta biết sống chịu đựng, ý chí sẽ rèn luyện cho con người ta luôn nỗ lực vươn tới, đi lên. “Cao đo nỗi buồn / Xa nuôi chí lớn” là những câu thơ có ý nghĩa như một lời động viên, là động lực mà người cha muốn truyền cho con, làm cho con luôn vững bước, đi xa hơn cùng với những quyết định trong cuộc sống của mình và luôn giữ bên mình một niềm tin vào cuộc sống. Sống ở đời sẽ không tránh được nỗi buồn, người biết sống cũng phải là người luôn “nuôi chí lớn” để làm cho cuộc đời, cuộc sống một điều gì có ý nghĩa. Đó cũng là kì vọng về tầm kích của con trong bước đường đời gian nan.
Nhưng có lẽ, điều in sâu đậm nhất trong lòng mỗi đứa con (và người đọc chúng ta) là những lời dặn dò, khuyên bảo của người cha. Đứa con trước cha, trước quê hương luôn mãi là một hình ảnh yêu thương, bé bỏng nhất và lúc nào cũng cần được chở che, dạy dỗ. Bài học của cha luôn là động lực giúp con khôn lớn, cứng cỏi trước cuộc sống.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Ngưòi đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai bé nhỏ đâu con”.
Nhuyễn vào lời thơ là những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ “ sống” vang lên ba lần đã khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng … đều mà cha “vẫn muốn”, cha mong con, hy vọng ở con. Lời thơ giản dị mà chắc nịch, lay động thấm thía vào lòng người.Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã được người cha dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh vượt khó khăn gian khổ của những con người của quê hương.Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói. Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện trong điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví “người đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như sông như suối qua các hình ảnh cụ thể “đá, thung, những thác những ghềnh …, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí. Cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt này. Dù quê hương vất vả, nhọc nhằn, dù “người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con của quê hương không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha mẹ đã từng cáy xới vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi khổ đau ấy lại khiến cho “chí lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt? Quê hương dẫu là vùng rừng núi hoang sơ còn nhiều gian nan, khổ cưc, đói nghèo nhưng con người - “người đồng mình” đã tự khẳng định bằng sức sống, nghị lực, ý chí, và niềm tin, là chân dung dũng sĩ :
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
“ Người đồng mình” môc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thề “thô sơ da thịt” nhưng “ không hề nhỏ bé” vầ tâm hồn, về khí phách. Từ đó để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác, không hề “ nhỏ bé” tầm thường trước thiên hạ. Họ mong ước xây dựng quê hương ngày cang tươi đẹp. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đả tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”
Đó là những con người tự đục đá kê cao quê hương, lao động cần cù không lùi bước trước khó khăn. Tất cả những điều đó đó khiến họ giữ vững bản sắc văn hoá của dân tộc. Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể làm rạng rỡ quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục tập quán tốt đẹp. Họ yêu quê hương, lấy quê hương làm chỗ dựa tâm hồn Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người quê hương, nơi con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.
Với lời thơ trong sáng, giản dị, hình ảnh thơ gần gũi quen thuộc và đặc biệt giọng thơ chắc nịch nhưng thiết tha khiến “Nói với con” vừa ân tình vừa nghĩa lí giúp cho ta bài học làm người không quên xứ sở, nguồn gốc. Bởi đó là nguồn sức mạnh của ta.
Đề :Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. ( Bài tham khảo)
Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất, không chỉ các chàng trai mà các cô gái thanh niên cũng xung phong ra chiến trường, tham gia vào cuộc chiến tranh để dành lại độc lập cho dân tộc. Đó cũng chính là đề tài gợi nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ. Với khả năng sáng tạo và xây dựng hình tượng sống động cùng với những ngày tháng lăn lộn nơi chiến trường, Lê Minh Khuê đã khắc họa thành công hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn với những vẻ đẹp kì diệu của tâm hồn, lòng dũng cảm và tình đồng đội thân thương qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Tiêu biểu là nhân vật Phương Định_ nhân vật chính của truyện
Lê Minh Khuê là một cây bút nữ chuyên viết truyện ngắn. Trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, ngòi bút của bà trong chiến tranh luôn hướng về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của bà viết về đề tài này. Tác phẩm được bà sáng tác vào năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc diễn ra hết sức ác liệt. Bài thơ là một bức tranh sinh động về cuộc kháng chiến với những ngôi sao mà ánh sáng của nó chiếu rọi trong lòng ta – ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đó là những cô trinh sát mặt đường giữa bụi mù Trường Sơn.
Truyện xoay quanh nhân vật chính là Phương Định – một cô gái thanh niên xung phong sống cùng đồng đội, Thao, Nho, trên cao điểm, giữa một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ tuy vất vả và nguy hiểm nhưng các cô vẫn có những giây phút hồn nhiên, thơ mộng của tuổi trẻ. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, Phương Định và Thao đã chăm sóc rất tận tình. Cũng là lúc có một trận mưa đá ào xuống, Phương Định được sống lại với niềm vui trẻ thơ và cô lại nhớ về thành phố và gia đình.
Phương Định có hoàn cảnh sống và chiến đấu rất khó khăn, gian khổ. Họ sống trên một cao điểm, trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn giữa mênh mông khói bụi và bom đạn hủy diệt của kẻ thù. Công việc của họ là “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Các cô phải đối diện với thần chết từng phút, từng giờ, “thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhip điệu chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ.Trong “lúc đơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn và làm việc có khi suốt đêm” thì các cô, tổ trinh sát mặt đường, phải chạy trên cao điểm cả ban ngày, dưới cái nóng trên 30 độ. Từ cao điểm trở về, mặt các cô ai cũng “hai con mắt lấp lánh”, “cười thì hàm răng lóa lên khuôn mặt nhem nhuốc”. Nhiệm vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, thể hiện phần nào hiện thực cuộc chiến đầy khắc nghiệt. Và cũng từ đó, ta thấy sáng ngời lên tinh thần yêu nước, đầy quả cảm của các cô gái thanh niên xung phong
Phương Định là một cô gái Hà Nội vào chiến trường. Ấn tượng đầu tiên về cô là vẻ bề ngoài đáng yêu, trẻ trung, xinh xắn và đầy sức sống. Cô có “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa lòa kèn”. Đặc biệt, cô có đôi mắt với ánh cái nhìn sao mà xa xăm. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm cô, hay “viết những thư dài gửi đường dây”, “mặc dù có thể chào nhau hằng ngày”. Phương Định cảm nhận được điều đó, cô cảm thấy vui và tự hào nhưng chưa dành tình cảm cho một ai. Cô chỉ thích ngắm mình trong gương và làm điệu hoặc có vẻ kiêu kì một cách đáng yêu khi thấy các đồng đội của mình tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đó.
Phương Định vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Cô mang theo vào chiến trường Trường Sơn đầy ác liệt cả những nét đáng yêu của một cô gái tuổi mới lớn, mang theo cả một tâm hồn mơ mộng, rất hồn nhiên, yêu đời. Cô mê hát. Sống trong hoàn cảnh ác liệt của bom đạn trên chiến trường Trường Sơn, lúc nào cũng cận kề với cái chết, cô vẫn không bỏ đi sở thích của mình. “Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng phải ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình “Tuy vậy, chị Thao vẫn say mê chép những lời bài hát mà Định bịa ra. Cô thích rất nhiều bài, “thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh..”Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có”. Cô hát trong những khoảnh khắc “im lặng” khi máy bay trinh sát rè rè trên đầu, khi cơn bão lửa sắp chụp xuống cao điểm. Cô hát để động viên đồng đội và cũng là để động viên chính bản thân mình, để gửi vào trong tiếng hát nỗi khát khao của tuổi trẻ, của người chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu dấu, được gặp lại người yêu sau bao nhiêu nhớ nhung, chờ đợi.
Phương Định sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư giữa gia đình và thành phố Hà Nội thân yêu. Gặp một trận mưa đá, ở cô lập tức toát lên một niềm vui con trẻ, niềm vui ấy nở tung ra, say sưa, tràn đầy. Cô nhặt những hạt mưa đá để rồi bâng khuâng ngơ ngác khi thấy nó tan biến bất ngờ, cũng nhanh như khi nó ập đến. “Tôi bỗng thẫn thờ, tiếc không nói nỗi...Tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố” Tất cả mọi kỉ niệm đẹp nhất ở thành phố Hà Nội, về mẹ, về tuổi thiếu nữ trong sáng, vô tư như ùa về, xoáy mạnh trong lòng cô gái. Chính những kỉ niệm đó đã làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.
Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật lên tinh thần dũng cảm, thái độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy. Điều đó được thể hiện cụ thể qua một lần phá bom trên cao điểm ở Trường Sơn. Sau những đợt thả bom của giặc, Định cùng đồng đội chạy lên cao điểm để làm nhiệm vụ, nơi vẫn còn có những quả bom chưa nổ. Không gian lúc đó vắng lặng đến phát sợ. Nhưng cô không hề sợ hãi. Cô có cảm giác như các chiến sĩ đang dõi theo mình, vì vậy mà cô cảm thấy an tâm hơn. Cô quyết định không đi khom, bởi một lý do rất đơn giản “Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới.” Cảm giác ấy vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt qua mọi hiểm nguy.
Phương Định “dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom”. Quả bom nằm lạnh lùng. Lưỡi xẻng thỉnh thoảng lại chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người vang lên, cứa vào da thịt cô. “Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành” Cách miêu tả của tác giả thật tài tình, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được âm thanh của hai vật bằng sắt chạm vào nhau rồi lại cảm thấy rùng mình như Định, càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, gan dạ của cô.
Những lúc đối mặt với quả bom sắt lạnh lùng, cô cũng có nghĩ đến cái chết. “Nhưng một cái chết rất mờ nhạt, không cụ thể”. Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Còn điều mà cô quan tâm lúc này là “liệu mìn có nổ không, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”Trong suy nghĩ của Định, cô luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt dù có phải hi sinh. Cảm xúc, suy nghĩ chân thật ấy của cô đã truyền sang người đọc nhiều đồng cảm, yêu mến, trân trọng và kính phục. Chính nhờ sự gan góc, dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã giúp Định thực hiện tốt công việc của mình. Một cô gái như muôn ngàn cô gái khác trên tuyến đường Trường Sơn, đang hàng giờ dệt nên những kì tích cho Tổ quốc thân thương: Những con đường bằng phẳng để các chuyến xe vượt Trường Sơn tiến vào Nam .
Công việc “chọc giận thần chết” đã trở nên quen thuộc với cô, là công việc hàng ngày, nhưng nó không làm cho tâm hồn cô trở nên chai lì, khô cứng. Ở Định, ta còn thấy thường trực một tình cảm đồng đội, đồng chí nồng ấm. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô vỗ về và chăm sóc cho Nho tận tình như một cô y tá khi Nho bị thương lúc phá bom: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi mình”, “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than”, “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt”. Sự chăm sóc tận tình của Định đã giúp Nho khỏe lại nhanh chóng. Ba cô gái thanh niên xung phong tuy với tính cách khác nhau nhưng họ yêu thương nhau và đối xử với nhau như chị em ruột thịt. Cô còn dành tình cảm trân trọng, yêu mến của mình cho những người chiến sĩ đang trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường. Trong suy nghĩ của cô, “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ.” Tình đồng đội, đồng chí của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô làm tốt nhiệm vụ của mình. Có được trang viết này cũng một phần xuất phát từ tâm hồn giàu tình cảm của cây bút Lê Minh Khuê.
Thành công nhất trong truyện là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Truyện được miêu tả theo ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính, tạo điều kiện để tác giả tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật chính, làm cho câu chuyện diễn tả một cách chân thật, tự nhiên cảm xúc, tâm trạng của những người chiến sĩ. Nhan đề truyện xuất phát từ ánh nhìn của Phương Định, những ngôi sao xa xăm trên bầu trời gợi nhiều cảm xúc. Bên cạnh đó, vẻ đep tâm hồn của ba cô gái thật lấp lánh, lãng mạn giữa hiện thực khắc nghiệt như những ngôi sao xa xôi, lấp lánh trên bầu trời cao rộng.
Trường Sơn là nơi thử thách ý chí, khí phách con người Việt Nam . Chính những con người như Phương Định, Thao, Nho đã xướng nên bài ca tuyệt đẹp của “những bông hoa trên tuyến lửa” anh hùng. Giữa sự ác liệt của chiến tranh, vẻ đẹp của họ vẫn tỏa sáng. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hòa bình đã tạo nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Họ vốn chỉ là những con người rất đỗi bình thường nhưng đã góp phần tạo nên những kì tích anh hùng cho dân tộc:
“Em là người thanh nien xung phong
Không có súng chỉ có đôi vai tải đạn
Giữa tầm đạn thù tấm lòng dũng cảm
Em vượt đường dài tiếp thêm lửa chiến công”
Tóm lại, truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong mọi người hình ảnh tuyệt đẹp của những cô gái thanh niên xung phong thời kháng chiến chống Mỹ với tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan. Phương Định, tuy chỉ là một ngôi sao bé nhỏ, nhưng sẽ luôn tỏa sáng, sáng lấp lánh trên bầu trời Việt Nam . Các cô mãi là những hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến.
Đề :Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương ( Bài tham khảo )
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
....
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã ra thăm lăng Bác. Cảm xúc dâng trào, nhà thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của hàng triệu người con miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người đọc xúc động.
Hai khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên Ng` cha thân yêu của dân tộc.Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, nhôn ngữ bình dị mà hàm súc, tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu sắc.
Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Bác. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc,từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý.
Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng “con” thật ấm áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với người dân, như là một vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã giải phóng nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ “viếng” đã được nhà thơ thay bằng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác vẫn sống mãi.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre - biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người dân Việt Nam – đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu hịêu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cái kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của thiên nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác như dân tộc Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.
Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua trên lăng, là mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra trong lăng, rất đỏ. Bác nằm trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ được hạnh phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không kể xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác chưa ?. Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái đặc tính của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia, cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào cũng ấm nóng thế đâu! Vầng mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng tâm hồn…Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống mãi trong lòng mỗi con người Việt Nam.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào, ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn ? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những đoá hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác.
Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rựơu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thùc, ngừng lặng hòan toàn.
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của Bác không bị bỏ phí.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)