Thứ Tư, 18 tháng 6, 2014

Tình cảm gia đình

Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha
         Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng bất tận hiện hữu trong thi ca văn học Việt Nam. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đánh cắp con tim người đọc bởi tình cha con bao năm xa cách mà đầy éo le trong chiến tranh. Những ai đã từng đọc “ Bếp lửa” của Bằng Việt chắc chắn không thể quên được tình cảm yêu thương nồng thắm của người bà dành cho cháu. Hòa trong những cung bậc nỗi nhớ và suy tư của người cháu đối với bà là lòng biết ơn vô hạn của cháu về người bà giàu tình thương và đức hi sinh. Còn Y Phương, cùng mạch nguồn cảm hứng ấy, nhà thơ đã cho ra đời tác phẩm “Nói với con” đầy sâu sắc khi mượn lời của người cha nói với con, kín đáo gửi gắm bài học đạo lí về lòng biết ơn cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình, làm rung động bao con tim độc giả..
           Lời nói của Goethe : "Dù là vua chúa hay dân cày kẻ nào tìm thấy được sự an bình trong gia đình là người sung sướng nhất" thật đúng khi nói về gia đình.Tình cảm gia đình như những tia sáng diệu kì của cuộc đời. Tia sáng ấy sẽ sưởi ấm cho tâm hồn mỗi người. Gia đình! Gia đình! Tiếng gọi nghe dễ nhưng lại thiêng liêng biết bao. Gia đình là một thứ thiêng liêng không có thể so sánh được, biết hết giá trị.Gia đình là nơi vun đắp những tâm hồn. Hạnh phúc lớn nhất của mỗi con người là được sinh ra là lớn lên trong sự thương yêu, dạy bảo của gia đình. Trong trái tim mỗi con người, gia đình luôn chiếm phần lớn, là nỗi nhớ mỗi lúc đi xa, là động lực, điểm tựa để ta vươn lên đạt đến thành công trong cuộc sống. Và khi đọc “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, “ Bếp lửa” của Bằng Việt, “Nói với con” của Y Phương ta đều cảm nhận được thiêng liêng hai tiếng gia đình.
           Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại.Nhưng những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo gây ra không thể nào giết chết những thứ tình cảm đẹp như tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng.Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thách,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. “Chiếc lược ngà” như một truyện cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số phận của nhân vật. Người còn, người mất nhưng kỉ vật gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với chúng ta nhiều điều về tình người, tình đồng chí, tình cha con Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái.
           Hai cha con ông Sáu gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu phải ra đi. Trở lại khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.
         Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ khi bé Thu gọi tiếng “Ba” . Ông trở lại khu căn cứ với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về. Lời dặn của đứa con tước lúc chia tay “Ba về ! Ba mua một cây lược cho con nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà cho con. Khi kiếm được một khúc ngà, ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng như đứa trẻ được quà. Rồi ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình cha con của mình. Đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng.
        Ông bỗng chốc trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình mà chiếc lược ngà là tác phẩm duy nhất của cuộc đời anh. Những lúc rỗi, ông cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm người đồng đội cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gởi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. Chiếc lược ngà giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của ông. Những lúc nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho bóng mượt. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà diệu kì, là hiện hữu của tình cha con bất hủ giữa ông Sáu và bé Thu. Tình thương ông dành cho con cháy bỏng, như một dòng sông chảy mãi từ suối nguồn, như dòng máu chảy sâu vào tim ông, vào tâm hồn ông đến phút cuối vẫn bùng cháy chẳng nguôi.
          Thật trớ trêu, ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao chiếc lược ngà vào tay con. Giây phút cuối cùng của sự sống, ông rút trong túi ra chiếc lược ngà đưa cho người đồng đội là bác Ba, chỉ im lặng nhìn bác Ba một hồi, cái ánh mắt nhắn nhủ bao điều, ông muốn con nhận lấy chiếc lược ngà - ấy cũng chính là lời trăn trối cuối cùng của ông. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử!Và cũng chính chiếc lược ngà ấy đã làm nảy sinh một tình cảm mới, như tình cảm cha con giữa cô giao liên là bé Thu ngày xưa và bác Ba. Người đọc phải nghẹn lòng ở các tình huống xót xa, tưởng chừng như sẽ kết thúc bằng một dấu chấm hết nhưng đến phút cuối thì lại vỡ òa theo dòng cảm chảy của cảm xúc. Tuy ông Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện về hai cha con anh sẽ còn sống mãi.
  Tình cảm gia đình là là thứ tình cảm đặc biệt ,thiêng liêng và bất diệt. Tình cảm gia đình từ xưa đến nay, vẫn luôn như dòng sữa ấm áp nuôi nấng ta khôn lớn trưởng thành. Y Phương -  một nhà thơ dân tộc miền núi, tha thiết “Nói với con” về tình cảm cha con thắm thiết, hay rộng hơn cả đó chính là tình cảm đối với quê hương dân tộc, với bản làng. Tiêu biểu là đoạn thơ:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
 Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được nghe con
Nghe con.''
       Cuộc đời không bao giờ yên ả như một mặt nước hồ thu nên con hãy ngẩng cao đầu dũng cảm vượt qua chông gai, thử thách của cuộc đời. “Người đồng mình” không chỉ giàu ý chí nghị lực mà còn giàu về đời sống tinh thần, tâm hồn phóng khoáng để xây dựng nên quê hương với những phẩm chất tốt đẹp.Người cha tự hào ca ngợi người đồng mình:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
       Hình ảnh “người đồng mình” cứ lập đi lập lại trong bài thơ gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Người cha tự hào vì “người đồng mình” tuy mộc mạc nhưng giàu ý chí, niềm tin. Hình ảnh cụ thể “thô sơ da thịt” cho ta thấy sự giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Giọng thơ khẳng định “chẳng mấy ai nhỏ bé” thể hiện niềm tự hào  của người cha về lẽ sống cao đẹp và tâm hồn phong phú của dân tộc. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề “nhỏ bé” về tâm hồn, về ý chí và mong ước xây dựng quê hương. Từ “nhỏ bé” ở đây được hiểu theo nghĩa bóng. Những người lao động miền núi cần cù, lam lũ đã từng bước khẳng định mình trong cuộc sống. Họ không tự hạ mình, không chịu khuất phục trước thiên nhiên, cuộc đời. “Người đồng mình” không ai chịu tự bó mình trong cuộc đời nhỏ nhoi, tầm thường mà ngược lại ai cũng có ước mơ, hoài bão sống cuộc đời rộng lớn, ai cũng có khát vọng vươn lên.Chẳng những thế mà học còn:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
          Cách nói bằng hình ảnh mộc mạc, cụ thể “tự đục đá” mà ý thơ sâu sắc, người dân tộc bao đời nay chắt chiu, gầy dựng từng mầm sống nhỏ nhoi quê nghèo nhưng tình người lại giàu có vô cùng. Y Phương khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là họ luôn có ý thức làm cho quê hương ngày càng giàu đẹp. “Người đồng mình” cần cù, chịu thương chịu khó luôn sống gắn bó với quê hương, luôn có ý thức đóng góp xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển.  Câu thơ “Còn quê hương thì làm phong tục” như lời khẳng định rằng quê hương càng phát triển thì đem đến cho con người sự thay đổi lớn lao về đời sống vật chất và tinh thần.Tình cảm và những việc làm cao đẹp thiết thực của họ chắc chắn sẽ được quê hương, dân tộc tôn vinh, ghi nhớ và truyền lại cho thế hệ mai sau.  Với lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, người cha còn gửi đến con những lời nhắn nhủ tâm tình:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé đươc
Nghe con”
           Nhịp thơ chậm rãi tha thiết, điệp ngữ “thô sơ da thịt” được lặp lại một lần nữa nhưng khẳng định thêm về phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Lời thơ chắc gọn như một mệnh lệnh “lên đường” vừa thể hiện mong ước tha thiết của người cha đối với con: khi bắt đầu bước vào hành trình của cuộc đời mình con hãy sống đúng với phẩm chất của “người đồng mình”. Bởi vì “người đồng mình” có thể cực khổ, lam lũ nhưng luôn mạnh mẽ với chí lớn. Có thể “thô sơ”, mộc mạc với áo chàm nhưng không nhỏ bé về khí phách cho nên con không bao giờ được bằng lòng với cuộc sống bó hẹp, tầm thường phải biết trân trọng giữ gìn và phát huy truyền thống của quê hương, ngẩng cao đầu vượt qua chông gai, thử thách để tự tin khi bước vào đời. Kết thúc bài thơ chỉ có hai tiếng “nghe con”. Câu thơ là lời nhắc nhở đầy cảm động: đừng chối bỏ cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay nói đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, đậm chất trữ tình đã thể hiện  được niềm tin tưởng, hy vọng của người cha đối với bước đường tương lai của con. Người cha luôn muốn nhắc nhở con phải “Không bao giờ nhỏ bé được” chính là muốn con phải luôn tự khẳng định mình, phải có ý thức vươn lên trong cuộc sống. Lời nhắc nhở của người cha tạo nên một âm hưởng thiết tha làm rung động tâm hôn chúng ta. Tác giả đã giúp ta cảm nhận được tình cảm gia đình ấm cúng, tình cảm quê hương sâu đậm đối với mỗi người.Càng hiểu sâu sắc bài thơ, ta càng hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi. Từ đó gơi nhắc trong ta tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương, tình đoàn kết dân tộc và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
  Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý từ gia đình. Những giá trị, những kỉ niệm về tình cảm từ những người thân sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy.
           Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp - hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu. Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
  “Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ – tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú thường gợi nên sự khắc khoải, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Với Bằng Việt, âm thanh ấy mau như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế”. Điệp từ “tu hú” được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điệu thật bồi hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc cũng như nghe vẳng lại đâu đây tiếng tu hú từ trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gợi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vấn vít vào nhau – nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoải một điều gì đó tha thiết lắm, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những ký ức thân thương về tình bà cháu sâu đậm :
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
  Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ thuật liệt kê : “Bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”,… mỗi một ký ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ. Cặp từ “bà” và “cháu” xuất hiện trong từng phép liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó, quấn quít không rời, gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tất cả. Cùng bà nhóm bếp hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vất vả của bà khi phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình “nghĩ thương bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về :
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
  Câu cảm thán “Tu hú ơi !” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở giữa nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mênh mang : khi cháu đã đi rồi thì ai sẽ “cùng bà nhóm lửa”, ai sẽ nghe bà “kể chuyện những ngày ở Huế”…Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình ? Là lời than thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ? Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả.Bằng Việt từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu đã thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.  Để ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…
            Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi người. Mỗi nhà thơ, nhà văn bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và đánh thức tình cảm tốt đẹp của con người về tình cảm gia đình. Các nhà thơ, nhà văn ngợi ca, tôn vinh tình cảm gia đình, cho thấy được sự hi sinh và những tình cảm cao quý, dạt dào của gia đình đối với mỗi con người. Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong các tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của thơ văn dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng - một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.
      Đọc xong các tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,“ Bếp lửa” của Bằng Việt , “Nói với con”  của Y Phương nhiều dư âm vẫn làm ta xao xuyến không muốn gấp trang sách lại. Những lời dạy chân thành của người cha trong "Nói với con", tình cảm cha con cảm động, sâu sắc của cha con ông Sáu  trong“Chiếc lược ngà”  hay những xúc cảm dâng trào về sức mạnh to lớn về tình bà cháu trong " Bếp lửa ".Tất cả như dừng lại khiến ta phải ngẫm về những ngày mình làm cho cha mẹ buồn rầu, làm mẹ rơi lệ.Cảm ơn chân thành đến các tác giả vì họ đã cho ta nhận ra vẻ đẹp gần gũi luôn bên cạnh mà ta chưa hề nhận ra.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Vũ Nương

     Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đã trở thành đối tượng phản ánh của khá nhiều các tác phẩm nghệ thuật: âm nhạc, hội hoạ, thơ văn. Hình ảnh của họ xuất hiện dù bất kì ở hoàn cảnh nào dù hạnh phúc hay đau khổ, dù bất hạnh hay đớn đau - người phụ nữ trước sau như một vẫn là những người giàu lòng hi sinh, nhân hậu, cao thượng.Họ bước vào văn thơ như chính cuộc đời của họ. Có những câu chuyện kể, đã trở thành huyền thoại, thành truyện dân gian, thành truyện truyền kì kể đến muôn đời sau về tấm lòng chung trinh của họ. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là người như vậy.
      Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ được tác giả miêu tả là người con gái có tư dung tốt đẹp, thuỳ mị nết na. Một người con gái có sắc đẹp và đức hạnh như vậy hứa hẹn một tương lai hạnh phúc, cuộc đời của nàng sẽ sung sướng an lành. Sắc đẹp và đức hạnh của nàng đã lọt vào mắt xanh của Trương Sinh người cùng làng mến vì dung hạnh của nàng mà xin mẹ một trăm lạng vàng để cưới nàng về làm vợ. Trong quan niệm của xã hội phong kiến một người được cưới hỏi mai mối đàng hoàng như nàng rõ ràng là danh giá lại được Trương Sinh mến yêu vì dung hạnh. Nhưng xét cho đến cùng Vũ Nương cũng bao người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến đều chịu chung bất hạnh là không được lựa chọn người bạn đời của mình. Hạnh phúc của họ vốn mong manh càng trở nên mong manh khi họ phải một mình chống lại trăm mối đe doạ từ nhiều phía và nguy hiểm nhất vẫn là những người chồng của họ. Trương Sinh chồng của Vũ Nương yêu mến vợ nhưng lại có tính đa nghi hay ghen lại phòng ngừa quá sức. Lẽ dĩ nhiên ta hiểu điều gì xảy ra với Vũ Nương trong đời sống tinh thần của nàng khi luôn phải sống trong sự phòng ngừa quá sức của chồng nặng nề như thế nào. Chắc chắn Vũ Nương cũng chẳng được tự do cười nói, suốt ngày lầm lũi, không giao tiếp với ai. Nhưng việc nàng làm được đáng để cho chúng ta khâm phục: chưa từng để xảy ra nỗi bất hoà: Ở Vũ Nương ta có thể thấy được phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam, đấy là đức tính nhẫn nhịn đến quên mình vì hạnh phúc gia đình, vì người thân mà không màng đến những đau khổ của riêng mình. Rõ ràng nàng phải là người trân trọng hạnh phúc của gia đình mới có thể có những hi sinh đến quên mình ấy.
Song hạnh phúc mong manh của nàng chẳng được bao lâu, cuộc đời của Vũ Nương chuyển sang một bước ngoặt khác, khi Trương Sinh bị bắt đi lính. Những tưởng sự việc này xảy ra sẽ là một cách để giải thoát cho Vũ Nương, nhưng hãy chứng kiến cảnh Vũ Nương tiễn chồng đi lính và những lời nói của nàng dành cho người chồng. “Nàng rót chén rượu tiễn chồng mà rằng: Thiếp chẳng mong được ấn phong hầu, áo bào trở về quê cũ…chỉ mong cho chàng hai chữ bình yên..”; “Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa. Nhìn liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình thương người đất thú. Dẫu có thư tín nghìn hàng cũng không mong có cánh hồng bay bổng.” Ta thấy rằng: Rõ ràng việc Trương Sinh đi lính là một bất hạnh đối với Vũ Nương, nàng mất đi chỗ dựa tinh thần. Với nàng khát vọng cháy bỏng nhất và cũng là rất đỗi bình dị nhất đấy là sự bình yên cho chồng giữa hòn đạn mũi tên. Bởi vì sự bình yên cho chồng cũng có nghĩa là sự bình yên cho mái ấm gia đình. Nàng yêu chồng mình tha thiết, dám mạnh dạn bày tỏ tấm chân tình của mình với chồng. Những lời nói của nàng với chồng thể hiện nỗi nhớ nhung nghe sao da diết nồng nàn tình phu thê sâu nặng, không mảy may một chút giả tạo gượng ép nào. Những lời nói ấy thực sự ngân lên từ trái tim của người phụ nữ dành chọn tình yêu thương cho chồng, tràn đầy khát khao mong mỏi về hạnh phúc gia đình bình dị. Và để đặc tả nỗi nhớ và tấm chân tình này của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã dùng những hình ảnh của thiên nhiên hoạ lại một cách nồng nàn  bao niềm thương nỗi nhớ, bao thổn thức đau đáu của Vũ Nương khi cảm nhận trước được thời gian và không gian phải xa cách chồng như thế nào. Tất cả những cảnh vật hiện ra trước mắt nàng đều làm nàng nhớ đến người chồng của mình. Bao lá thư cũng không thể diễn tả hết được tình cảm của nàng dành cho chồng. Điều ấy, cho ta thấy Trương Sinh có vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc đời của Vũ Nương, và trong trái tim của nàng.
         Tâm hồn trong sáng và tấm chân tình da diết cháy bỏng của Vũ Nương đã lay động trái tim của những người chứng kiến “ứa hai hàng lệ” cảm thương cho hoàn cảnh của nàng đồng thời trân trọng, cảm phục  tấm lòng, tình yêu thương dành cho chồng của nàng một cách tuyệt đối. Lẽ dĩ nhiên cả người đọc chúng ta nữa làm sao không thể không xúc động trước người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn lại luôn bị chồng phòng ngừa quá sức. Nhưng trước cảnh biệt li vợ chồng Vũ Nương lại đau khổ da diết nhớ thương. Cũng bởi một lẽ nữa, ta hiểu và đồng cảm với nàng: Tuy lấy Trương Sinh về đời sống tinh thần không được nhẹ nhàng nhưng sẽ còn bất hạnh hơn nếu như Trương Sinh tử trận nơi sa trường. Điều ấy, đồng nghĩa với việc cướp đi phũ phàng niềm vui nghi gia, nghi thất nàng luôn khát khao, cướp đi hạnh phúc mỏng manh mà bấy lâu nay một tay nàng gây dựng. Cuộc đời của Vũ Nương càng gắn chặt với mái ấm gia đình của nàng hơn khi nàng sinh con. Vũ Nương bây giờ không chỉ ghánh trọng trách của một người vợ, của người con dâu mà còn là một người mẹ. Nhưng nàng đã làm tròn vai của mình: Một người vợ đảm đang chung thuỷ. Một người mẹ đức hạnh. Một người con dâu thảo hiền. Với người mẹ chồng, Vũ Nương đã tạo được mối quan hệ tốt đẹp nặng tình, nặng nghĩa, đã làm được cái điều xưa nay là việc khó của các nàng dâu: Tận tình chăm sóc, lựa lời khéo léo động viên mẹ lúc mẹ ốm đau. Vì thế đã dành được niềm tin yêu của người mẹ chồng. Đặc biệt lúc mẹ chồng trước khi nhắm mắt xuôi tay đã dành cho Vũ Nương những lời nói đầy niềm tin yêu trân trọng: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.Có thể nói những lời của người mẹ tựa như vàng ròng. Một thứ vàng tâm được đúc ra từ tấm lòng tràn đầy niềm tin yêu cảm phục người con dâu hiếu thảo, nết na đức hạnh đã dành  hết tâm sức cho gia đình. Bà cầu Phật ban phúc đức cho người con dâu của mình. Tin vào lẽ công bằng, tin ông trời thấu hiểu cho tấm lòng hiếu thảo của người con dâu. Điều này, còn cho ta một suy nghĩ đáng để lưu tâm: Dù người mẹ chồng có thế nào đi chăng nữa nhưng nếu người con dâu có đức hạnh thì vẫn có thể hoá giải được mối quan hệ “mẹ chồng nàng dâu” trở nên  tốt đẹp. Một người như Vũ Nương dung hạnh hơn người lẽ đương nhiên là được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những gì nàng mong muốn khát khao. Song số phận lại đùa cợt với nàng.
       Ngày Trương Sinh trở về những tưởng sẽ là những ngày hạnh phúc của Vũ Nương, bao lo lắng, bao nhớ thương, chờ đợi hi vọng của nàng sẽ được đền đáp. Nhưng không ngờ rằng cái ngày mà Trương Sinh trở về lại là bất hạnh đến với nàng. Ngay từ giây phút đầu tiên Trương Sinh trở về khi biết được mẹ mình đã mất Trương Sinh đau lòng liền bế con ra mộ mẹ, mà không đoái hoài đến Vũ Nương, không hỏi han Vũ Nương được một câu. Đứng ở vị trí khách quan ta thấy: thực ra Trương Sinh sau những năm tháng xa nhà vẫn là Trương Sinh của ngày trước. Chúng ta không thể phủ nhận hoàn toàn Trương Sinh là kẻ xấu vì ít ra cũng là người có hiếu  nhưng thói ích kỉ gia trưởng vẫn còn nguyên vẹn trong con người Trương Sinh . Thời gian Trương Sinh vắng nhà cũng là thời gian Vũ Nương bao nhọc nhằn chăm vén cho gia đình, để đợi ngày Trương Sinh trở về xây tiếp niềm vui nghi gia nghi thất . Song hành động của Trương Sinh lại làm cho người đọc chúng ta linh cảm thấy điều gì đó chẳng lành sắp xảy ra với Vũ Nương. Điều linh cảm của người đọc đã đúng. Điều mà Vũ Nương từ trước đến nay Vũ Nương đã cố giữ gìn không cho nó xảy ra đã đến với nàng nhưng chỉ có điều lần này nó kết thúc tất cả những hạnh phúc vốn rất mong manh của nàng. Từ câu nói ngây thơ của đứa trẻ: “Ô hay ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chi nín thin thít…trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn hay ghen lại thêm câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã xoáy vào lòng Trương Sinh vốn đã có tính đa nghi và như dầu đổ vào lửa thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông vốn đã thành máu trong Trương Sinh. Thế là Trương Sinh không cần hỏi han cho rõ cơ sự bất chấp những lời giải thích kể cả sự bênh vực lên tiếng của hàng xóm, về nhà đổ cho vợ cái tội tày đình: tội thất tiết lên đầu vợ. Trong xã hội phong kiến xưa kia người phụ nữ mà mắc tội này – cái giá mà họ phải trả có thể là cái chết rất đau đớn vê thể xác lẫn tinh thần. Với Vũ Nương cũng chỉ vì thương nhớ chồng và thương con không nhận được tình cảm của người cha như bao đứa trẻ khác, nàng cho con hình dung người cha bằng chính cái bóng của mình trên vách mỗi khi trời tối. Nhưng nghiệt ngã thay, oan nghiệt thay cái bóng lại trở thành nỗi oan nghiệt không có cách nào gỡ nổi cho nàng. Trước nỗi oan tày đình người chồng đổ lên đầu mình, trước sau vẫn giữ trọn đạo làm vợ, vẫn dùng những lời nhẹ nhàng nói với chồng để cởi bỏ mối nghi ngờ. Nhưng Trương Sinh vẫn tàn nhẫn, lạnh lùng không những không cho nàng thanh minh mà còn mắng chửi đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Sự ghen tuông mù quáng cùng với sự vô học đã dẫn đến hành động hồ đồ, đổ nỗi oan lên đầu vợ, còn cạn tàu dáo máng, bạc tình, bạc nghĩa đánh đuổi Vũ Nương. Là người phụ nữ giàu lòng tự trọng, biết không thể gỡ nổi nỗi oan, cũng như mong ước giản dị về hạnh phúc gia đình đã bị tan vỡ nàng đã nói lời cuối cùng với chồng:“Nay bình rơi châm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa”.Lần này Nguyễn Dữ cũng dùng những hình ảnh của thiên nhiên để diễn tả tâm trạng nhưng lần này là diễn tả tâm trạng tan nát, từng câu từng chữ như từng giọt máu dứt ra từ trái tim bất hạnh của nàng. Trái tim của nàng như tan vỡ ra từng mảnh theo những đứt gãy, theo tiếng kêu ai oán thảm sầu cuốn vào mây gió, nước thẳm. Thế là hạnh phúc mà nàng chắt chiu từng giọt nay đã bị Trương Sinh hất xuống đất rồi, không cho nàng có cơ hội xây dựng hạnh phúc mà bấy lâu nay nàng một lòng một dạ vun vén. Nhưng ngay cả trong những lúc như thế này ta vẫn thấy trong cái quằn quại đau đớn Vũ Nương hiện lên là một người vợ ngoan hiền, tấm lòng đầy khát khao về mái ấm gia đình. Vũ Nương đã cố gắng hết mình ngay từ khi bước chân về nhà chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng đến bây giờ tất cả đã hoá thành mây gió. Tuyệt vọng và đớn đau, Vũ Nương đã tìm đến cái chết để thoát khỏi nỗi oan. Đối với nàng, không còn con đường nào khác.Hành động đi đến cái chết của Vũ Nương là đúng hay sai? Nó chứng tỏ Vũ Nương là người như thế nào?Xét vào hoàn cảnh của nàng ta thấy: Vũ Nương ngay từ khi về nhà chồng nàng đã đặt hết tâm sức của mình cho gia đình, vượt qua bao sức ép về tinh thần luôn làm tròn vai của một người vợ, người mẹ, người con dâu hiếu thảo. Hơn ai hết nàng khát khao mái ấm gia đình có niềm vui nghi gia nghi thất và đặc biệt dành được sự trân trọng tin yêu của người mẹ chồng. Kể cả khi bị chồng đổ nỗi oan tày đình, dùng những lời lẽ thoá mạ nàng, Vũ Nương vẫn trước sau nhẹ nhàng giữ cái đạo làm vợ. Nhưng tất cả đã chấm hết với nàng. Chỗ dựa tinh thần duy nhất của nàng. Người đảm bảo có thể giữ được hạnh phúc cho nàng đã chối bỏ nàng một cách phũ phàng. Vũ Nương trở thành người không chốn nương thân. Xét vào hoàn cảnh xã hội khi ấy, với bao nhiêu lễ giáo phong kiến ngặt nghèo thắt chặt lấy thân phận người phụ nữ. Một người giàu lòng tự trọng như Vũ Nương, lại bị chồng ruồng rẫy, thử hỏi có thể sống trong xã hội ấy không? Vì vậy quyết định đi đến cái chết của Vũ Nương là đúng và hoàn toàn có thể thông cảm được. Đồng thời nó chứng tỏ cho bản lĩnh của nàng. Vũ Nương dám sống và cũng dám chết. Nàng đi đến cái chết một cách rất bình tĩnh, chủ động. Trước khi chết tắm gội chay sạch, kêu với trời đất, kêu với dòng sông giọng điệu rất tỉnh táo, rõ ràng. Nàng thề độc với dòng sông………….Rõ ràng Vũ Nương là người muốn sống hơn ai hết nhưng nàng phải chết. Quyết định đi đến cái chết của Vũ Nương là một quyết định dũng cảm. Cảm phục thay tấm lòng trinh bạch của Vũ Nương. Cảm phục thay ở người phụ nữ vốn rất mực hiền lành dịu dàng, nhẫn nhịn đến quên mình để chăm vén cho gia đình nhưng lại rất cứng cỏi và bản lĩnh khi chẳng còn cách nào khác, sẵn sàng đi đến cái chết để chứng tỏ cho tấm lòng của mình.
      Cái chết của Vũ Nương trong bi kịch của gia đình mình, là người tố cáo mạnh mẽ với những xấu xa trong xã hội phong kiến. Ở đó người phụ nữ không có khả năng bảo vệ mình, họ mỏng manh và cô độc trước những độc đoán, gia trưởng của những người chồng. Họ luôn phải sống trong ràng buộc ngặt nghèo, nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến. Họ có thể bị đổ oan, bị dồn đến cái chết bởi những lí do vô lí cho dù trước đó họ có tốt đến như thế nào đi chăng nữa.
        Cái chết của Vũ Nương mãi là hình ảnh ám ảnh và nhắc nhở chúng ta về quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ và yêu thương của những người phụ nữ.Có người nói cái bóng đã gây nên cái chết oan nghiệt cho Vũ Nương. Nhưng theo tôi không phải thế. Cái bóng được sinh ra từ lòng yêu thương ấy không hề có tội. Mà người có tội chính là Trương Sinh với thói ích kỉ, ghen tuông mù quáng, thói gia trưởng, nam quyền mà xã hội phong kiến trao cho những người đàn ông, Trương Sinh chỉ là một trong cả cái xã hội phong kiến ấy mà thôi. Trương Sinh không hẳn là kẻ xấu bởi sau cái chết tức tưởi của Vũ Nương, Trương Sinh đã thức tỉnh, động lòng thương tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Cuộc đời như một trò đùa với Trương Sinh cũng chính từ lời nói của đứa con, khi cái bóng của lòng yêu thương xuất hiện trong đêm đã thức tỉnh Trương Sinh, thấu hiểu nỗi oan của vợ nhưng tất cả đã muộn với Trương Sinh.
          Sau cái chết của Vũ Nương câu chuyện có thể kết thúc nhưng tác giả và cả chúng ta nữa mong sao có phép thần tiên cứu sống Vũ Nương. Song điều ấy chỉ có trong cổ tích mà thôi,có lẽ thấu hiểu được điều ấy của người đọc và chắc chắn cả từ nhưng điều thực hư về nàng nữa trong cuộc đời nên Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra phần đời tiếp theo của nàng dưới thuỷ cung khi nàng được các nàng tiên nữ cảm thương mà rẽ nước cho nàng cho nàng xuống con nguyên lành thể xác, để rồi được giải oan. Nhưng ý nghĩa sâu xa trong phần sáng tạo thêm này của tác giả là gì ?
              Có lẽ ý nghĩa đầu tiên mà ta nghĩ đến, đấy chính là một lần nữa hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ vốn  tư dung tốt đẹp này: đấy là khi gặp Phan Lang người cùng làng qua lời đối thoại của nàng với Phan Lang khi nói Vũ Nương nói về nguyên nhân tại sao lại phải xuống thuỷ cung: “Tôi không may bị người vu oan” chứ không hề oán than, trách móc Trương Sinh. Điều ấy chứng tỏ Vũ Nương trước sau vẫn mãi là người vợ ngoan đạo, một lòng một dạ giữ danh dự cho chồng, nghĩ cho chồng. Một phần nàng cũng không muốn nhắc lại nỗi đau, nỗi oan nghiệt của nàng chưa được hoá giải. Nhưng đặc biệt khi Phan Lang nhắc đến Trương Sinh: “ Thế còn tiên nhân ngày đêm mong nhớ nàng thì sao” thì Vũ Nương ứa hai hàng lệ. Ta có thể cảm nhận được những gì đang diễn ra tâm trạng của Vũ Nương:  Nhắc đến Trương Sinh là nhắc đến nỗi oan nghiệt của nàng, và khát vọng được giải oan lại cháy lên trong nàng,  cả nỗi nhớ chồng, con, gia đình lại cồn cào thổn thức. Cũng chính vì thế Vũ Nương đã đi đến một một quyết định táo bạo: Gửi lời nhắn cùng với đôi hoa tai vàng qua Phan Lang cho Trương Sinh để lập đàn giải oan cho nàg nếu Trương Sinh còn nhớ đến tình xưa. Chi tiết này lại cho ta thấy Vũ Nương hơn ai hết là người hiểu Trương Sinh, rõ ràng là có yêu thương thì mới hiểu chồng của mình đến vậy.
      Chi tiết Vũ Nương trở về kì ảo lộng lẫy trên mặt sông trên kiệu hoa theo sau năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rợp cả một khúc sông, cùng với lời nói của Vũ Nương từ giữa sông vọng vào cho ta những rung động khôn nguôi về Vũ Nương: Vũ Nương vẫn mãi là người vợ ngoan hiền, một mực kính chồng khi nói trong bao tiếc nuối như không thể nào khác được: thiếp đa tạ tình chàng nhưng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Vẫn còn đấy trong câu nói của Vũ Nương bao diết đầy ân tình như chẳng bao giờ có chuyện Trương Sinh đối xử tệ bạc với mình. Tấm lòng hỉ xả như Phật Bà, nhưng vẫn nặng ân nghĩa cõi trần tục ấy của Vũ Nương quả là đáng trân trọng biết bao. Dẫu biết rằng câu chuyện có những nét hư thực, nhưng ta vẫn tin ở đời này có một Vũ Nương như thế với tên tuổi quê quán rõ ràng - Người con gái Nam Xương.
      Những chi tiết kì ảo trong cuộc đời thứ hai của Vũ Nương dưới thuỷ cung vừa nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ở lẽ công bằng ở điều nhân quả. Nhưng đồng thời cũng làm nổi bật tính bi kịch của câu chuyện: Vũ Nương tuy được sống nơi sung sướng, nơi không có khổ đau, bất công nhưng tất cả chỉ là ảo ảnh mà thôi vì thế giới tiên cảnh thì làm gì có thực. Vũ Nương có trở về rực rỡ đi nữa thì cũng chỉ là ẩn hiện tạ từ rồi biến mất. Vũ Nương chết thì không bao giờ sống lại được, hạnh phúc không bao giờ có thể tìm lại được cho Vũ Nương, cũng như nỗi oan gnhiệt của nàng mãi chìm vào sông nước Hoàng Giang. Đó chính là bi kịch. Điều đó cũng nói lên niềm thương cảm sâu sắc và nỗi đớn đau của nhân gian và cũng là của tác giả Nguyễn Dữ với số phận bi thảm, bất hạnh nhưng lại sáng ngời nhân phẩm và đức hạnh của người phụ nữ trong xã phong kiến. Chẳng thế mà suốt năm trăm năm qua nơi chính điện thờ bà vẫn nghi ngút toả khói hương.
      Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ với cách kể truyện dung dị cũng với những tình huống chi tiết có kịch tính, kể về thân phận bất hạnh oan nghiệt mà tâm hồn luôn ngời sáng tấm lòng hỷ xả như Phật Bà của Vũ Nương, có ý nghĩa tố cáo sâu sắc những xấu xa của xã hội phong kiến mà đại diện ở đây là Trương Sinh đã đẩy người phụ nữ đức hạnh dung hạnh vẹn toàn đến cái chết oan nghiệt mà chẳng hiểu vì sao. Xét trong xã hội ngày nay, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn còn có giá trị thời sự to lớn. Nó nhắc nhở chúng ta về quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ của những người phụ nữ.      

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

tinh cam yeu nuoc trong dong chi va noi voi con

Đất nước
                       Của những câu chuyện đều làm ta rưng rưng nước mắt
                       Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt
                       Trên mỗi con đường, mỗi thôn xóm ta qua
                       Từ non ngàn cho tới biển xa. (Nam Hà)
Con người Việt Nam, văn học Việt Nam luôn lấy tiêu chí yêu nước làm đầu. Thơ hiện đại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Các nhà thơ luôn trĩu nặng nỗi niềm quê hương đất nước.Những bài thơ viết ra trong thời chiến tranh khốc liệt hay khi đất nước hòa bình dù gắn với tiếng nói cá nhân vẫn sang lên tình cảm yêu nước, tình yêu với con người, cảnh vật, quê hương. Đồng chí của Chính Hữu, Nói với con của Y Phương cũng không ngoại lệ.Hình ảnh quê hương đất nước hiện lên trong các bài thơ đem lại những cảm nhận rất riêng nhưng lại rung cảm bao thế hệ độc giả. Chính lòng yêu nước đã tạo cho thơ Chính Hữu những tình cảm cao đẹp, mạnh mẽ :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
  (Đồng chí – Chính Hữu)
Còn từ bài thơ Nói với con của Y Phương, ta chợt hiểu ra yêu quê hương là phải yêu thương gắn bó với mảnh đất – con người quê hương, biết rung động , gìn giữ và phát huy những nét đẹp văn hóa dân tộc :
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
            ( Nói với con – Y Phương )
Tình yêu quê hương bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt hàng ngày, những tình cảm đôi lứa, tình yêu sự gắn bó với gia đình, làng quê, đó là tình cảm trong sáng nhất, cao cả và góp phần làm thanh lọc tâm hồn con người. Đó cũng là tình cảm gắn kết cá nhân với cộng đồng, tạo nên sự đồng cảm, sự lắng đọng sâu sắc và thường trực trong trái tim con người. Chính sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, thành ý chí bất khuất, sức mạnh chiến đấu, quyết tâm bảo vệ đất nước, đánh đuổi ngoại xâm, ý thức xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
 Khát vọng tự do của những người nông dân mặc áo lính trong Đồng chí được Chính Hữu thể hiện hàm xúc qua cách lý giải giản dị, độc đáo về tình đồng chí. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Vì nghĩa lớn họ chấp nhận hi sinh :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động. Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ: “Ruộng nương” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Bình thường vậy thôi , nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy.Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nuớc. Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ. Nông dân hay trí thức chỉ nghe tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Lên đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái kiên quyết dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu rằng những người lính càng cố gắng kiềm chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Nếu không đã chẳng thể cảm nhận được tính nhớ nhung của hậu phương:
 “Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”
Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về. Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá này tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn? Quả thực giữa người chiến sĩ và quê hương anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã gợi nên hai tâm tình như đang soi rọi vào nhau đến tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.
Quê hương là nguồn cảm hứng của những người cầm bút sáng tác, đây là đề tài không mới. Mỗi nhà thơ góp vào thi đàn những cảm nhận vừa mới mẻ vừa riêng tư làm cho hình tượng đất nước hiện lên trong thơ ca sinh động, đa dạng và tươi đẹp. Điều quan trọng là làm thế nào để tạo được những tác phẩm gây ấn tượng với người đọc. Y Phương đã làm được điều đó với bài thơ “Nói với con”. “Nói với con” là điển hình cho phong cách thơ Y Phương. Bài thơ đã làm xúc động mọi người. Bài thơ mượn lời người cha nói với con được viết theo lối tự do, với ngôn ngữ đặc trưng của người dân tộc rất giàu hình hoà quyện xoắn xuýt cảm xúc trữ tình của nhà thơ với niềm tự hào về quê hương dân tộc. Bài thơ đã dạy con về lòng thủy chung với  quê hương nghèo khó cùng khát vọng làm người chân chính. Người cha luôn tự hào nói với con về ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc  của người đồng mình với truyền thống vẻ vang :
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
            ( Nói với con – Y Phương )
Con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Đó là vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng, của nhân cách làm người được diễn tả qua cách nói tương phản đối lập giữa hình thức và phẩm chất bên trong. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói cụ thể về những con người mộc mạc, giản dị. Còn cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Đó là những con người sống giản dị mà mạnh mẽ, hồn nhiên mà mộc mạc. Người miền núi mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Chính cái hồn nhiên mộc mạc ấy lại chứa đựng sức sống mạnh mẽ của dân tộc Người đồng mình dù mộc mạc, giản dị như cây cỏ thì cũng không được sống tầm thương mà phải ngẩng cao đầu. Bộc lộ những suy nghĩ về người dân quê hương, người cha như  nhắn nhủ con phải biết gắn bó, qúy trọng nơi sinh thành; trân trọng yêu mến con người quê hương. Đã có lần Y Phương tâm sự rằng câu  thơ “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” là cách nói hết sức bình thường, giản dị đó là dù cuộc sống có thế nào đi nữa thì “người đồng mình” vẫn cao thượng chứ không ích kỉ, hẹp hòi.
Cùng với ý thức tự lực, tự cường, người đồng mình còn ngời sáng tinh thần tự tôn dân tộc và khát vọng xây dựng quê hương. Ý chí và mong ước ấy được cô đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý nghĩa sâu sắc:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.Người đồng mình sống rất thuỷ chung, nhân hậu. Người đồng mình kiên trì, bền bỉ trong công cuộc lao động để vun đắp, xây dựng xóm làng, biết dệt lên những phong tục để tôn vinh quê hương. Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực ( chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể làm rạng rỡ quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục tập quán tốt đẹp. Người đồng mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu, sánh tầm với các miền quê khác trên mảnh đất hình chữ S thân yêu Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào kiêu hãnh bởi họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Hình ảnh của quê hương, của người đồng mình hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp trong lời thủ thỉ, tâm tình của người cha đối với con. Đó là mạch suối ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí cho con. Đọc bài thơ Nói với con hiểu về vẻ đẹp của những con người quê hương, ta yêu hơn, trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp quê hương, đất nước.
Nước chúng ta Nước của những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về. Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống. Ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của  các nhà thơ. Mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải, các nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ. Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi...sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ... Và những buổi ngày xưa vọng về ấy thôi thúc bước chân và trái tim chúng ta?


Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

thiên nhiên trong Truyện Kiều( canh ngay xuan va kieu o lau ngung bich)

Truyện Kiều là một kiệt tác văn  chương trong kho tàng văn  học dân tộc. Đọc Truyện Kiều, chúng ta không chỉ thấy được chủ nghĩa nhân đạo thắm thiết của Nguyễn Du qua những thân phận con người mà còn được chiêm ngưỡng những nét đẹp của con người, cuộc sống, thiên nhiên tạo vật. Và thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là đối tượng miêu tả vừa là phương tiện biểu hiện.Nguyễn Du rất tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện. Nhà thơ luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Đó có thể là cảnh ngày xuân tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống như chính chị em Thúy Kiều thời ấm êm :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
                                     (Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
Đó có thể là cảnh hoang sơ, lạnh lẽo, vắng vẻ, mênh mông, rợn ngợp, đượm buồn trước lầu Ngưng Bích khi Thúy Kiều bước chân vào con dường lưu lạc :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
 (Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Thiên nhiên- một thế giới tuyệt đẹp hiện lên trong Truyện Kiều, được nhìn qua tâm hồn  nhạy cảm, tinh tế, thấm đượm yêu thương của Nguyễn Du.Nguyễn Du xây dựng thiên nhiên không chỉ là cái bình phong, là hình thức để ông ngụ tình. Thiên nhiên trong Truyện Kiều còn là đối tượng có vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn qua đó Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với cuộc sống, con người.
Nguyễn Du đã hoạ được bằng thơ cái thần của thiên nhiên trong sáng tác của mình. Bức tranh mùa xuân là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bằng an. Đó là cảnh sắc phới phới sức xuân trong “ Cảnh ngày xuân”:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
                                     (Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
 Đây là bức tranh đầy sức sống được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật  trước ngưỡng cửa tình yêu.Bức tranh thiên nhiên ngày  xuân  tươi đẹp  và trong sáng  ,cảnh xuân  mang một vẻ đẹp mơi mẻ tinh khôi sinh động .có hồn ,đầy sức sống,khoáng đạt trong trẻo nhẹ nhàng thanh khiết. Cảnh chủ yếu được tả thực với nét chấm phá đầy sức gợi (từ điểm ) ,những từ ngữ giàu chất tạo hình. Bốn câu thơ mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc hữu hương hữu tình nên thơ được mở ra. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa thoi. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình gợi cảm vút qua vút lai chao liệng để diễn tả thời gian trôi nhanh mùa xuân đang trôi nhanh. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân “Thiều Quang” của mùa xuân chín chục đã ngoài sáu mươi.“Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ : tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi, mùa xuân đã bước sang tháng ba ánh sáng của mùa xuân hồng ấm áp. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy : “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc : “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, thật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.
Thiên nhiên còn là một ẩn dụ để Nguyễn Du tả tình cảm của ông với con người, thế nên thiên nhiên ấy thắm đượm tình người. Tả cảnh ngụ tình là một trong những phương pháp quen thuộc và hiệu quả của các nhà văn, nhà thơ từ xưa tới nay. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một thứ bút pháp để Nguyễn Du miêu tả và khắc hoạ số phận, tính cách và nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhan vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu  sắc. Bức tranh trước lầu Ngưng Bích  là bức tranh nét nên thơ nhưng bao la buồn vắng cô đơn như cảnh ngộ nàng Kiều :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
 (Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh buồn bã lạnh lẽo được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật  trước số phận phong ba. Ngoại cảnh phản chiếu tâm trạng suy nghĩ  của nàng Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật và tâm tình tìm được tiếng nói chung, tiếng nói của một trái tim đơn côi, một tâm hồn lạnh lẽo Điều đó thể hiện qua cái rợn ngợp của không gian đa chiều ( rộng ,cao ,xa )các hình ảnh vừa thực vừa  vừa ước lệ  (non xa ,trăng gần ,cát vàng ,bụi hồng ).
Ở một mình chốn lầu Ngưng Bích bơ vơ trơ trọi, với lời dụ dỗ ngọt ngào của bọn buôn người bất nhân. Nàng bị Tú Bà giam ở lầu Ngưng Bích cách biệt hẳn với cuộc sống bên ngoài
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Hai từ “khóa xuân” mang đầy vẻ mỉa mai, trách móc. Kiều bị đem ra lầu Ngưng Bích giam lỏng. Trong cảnh ngộ cô đơn éo le ấy, nàng chỉ còn biết trải lòng mình lên cảnh vật, gửi gắm tâm hồn vào thiên nhiên, lắng nghe tiếng thổn thức phát ra từ tận đáy con tim. Cảnh tượng nơi lầu Ngưng Bích này thật đẹp: có núi non xa, vầng trăng gần đều hút chung vào tầm mắt. Hai từ ngữ đối lập “xa – gần” cùng từ “ở chung” như góp phần hoàn thiện thêm cái cạnh tượng thật nên thơ nhưng cũng thật quạnh quẽ phía trước lầu. Trông ra bốn bề, nàng thấy một không gian rộng lớn bát ngát hiện lên.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Người đọc chỉ thấy cảch thiên nhiên trước mặt nàng , phía xa xa kia là núi .Trên đầu nàng là tấm trăng lạnh lẽo.Xung quanh nàng là bốn bề bát ngát .Từ láy “bát ngát ”gợi cho người đọc hình dung thấy , không gian nơi lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, phẳng lặng không một bóng người. Phải chăng những cảnh vật tĩnh lặng này càng làm nổi bật lỗi cô đơn của Kiều.Nghệ thuật đảo ngữ ở đây làm ta cảm nhận rõ hơn cái rộng lớn của cảnh vật, cũng như cái trống trải của tâm hồn Thúy Kiều. Nhìn xa nhìn gần là ngổn ngang những cồn cát vàng trải dài vô tận, là những dặm bụi hồng xa xôi ngút ngàn. Phải chăng sự ngổn ngang của cảch vật cũng chính  là sự ngổn ngang của lòng  nàng Kiều. Các vế câu đối xứng nhau cùng những cặp từ “nọ - kia, xa – gần” như đợt sóng dồi tầng tầng lớp lớp trong tâm trí, xô đẩy thêm nữa cái tâm trạng lộn xộn của người con gái. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả thật vô cùng đặc sắc, diễn tả thật cảm động nỗi buồn và tình cảnh éo le của Kiều. Tình cảnh nàng Kiều lúc này thật chẳng khác gì sống trong địa ngục: thân xác bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, tâm hồn bị giam cầm trong vòng xoay khép kín của thời gian sớm - tối, và tình cảm thì bị giam hãm trong mớ tơ lòng rối bời. Phận nàng mới đáng thương làm sao! Bức tranh đầy ám ảnh, thấp thỏm, đầy sự vần vũ, thảng thốt, rợn ngợp để  Nguyễn Du đồng cảm cùng nàng Kiều bé nhỏ, trơ trọi, kinh hoàng, vô vọng trước biển
Ngòi bút Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong nền thơ ca dân tộc. Thiên nhiên có mặt, trở thành bút pháp đã góp phần thể hiện sâu sắc âm vang những nghĩ suy của Nguyễn Du về con người.Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du  cho thấy một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, yêu tạo vật, một linh hồn “ mang mang thiên cổ”, một sự nhạy cảm, tinh tế, tài hoa khác thường. Sáng tác của Nguyễn Du đã dạy người đọc cách mở rộng lòng mình với tạo hoá, với cái đẹp, dạy chúng ta biết sống yêu đời.

k1 btvtdxkk - nói với con

“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Đó là vẻ đẹp của những người dân Việt Nam .Các nhà văn, nhà thơ đã dùng ngòi bút của mình để ca ngợi vẻ đẹp của người Việt Nam trong kháng chiến cũng như trong đời sống hòa bình.
Đó là vẻ đẹp của những người lính. Viết về họ,“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật ,mỗi ý, mỗi lời đều chứa chan tình cảm và sự khâm phục dành tặng cho những con người đã làm nên đất nước, những đứa con ưu tú của đất mẹ yêu thương.  Ta thấy bóng dáng những người lính, dù đường trường vất vả gian lao, dù phải đối mặt với sự sống và cái chết, họ vẫn hiên ngang tiến về phía trước.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
( Bài thơ về tiểu đội không kính - Phạm Tiến Duật)
Đó là vẻ đẹp của những người con miền núi trong một “Nói với con  ”, một vẻ đẹp bất khuất và hào hoa. Y Phương  kiêu hãnh, tự hào khi được sinh ra và lớn lên là “người đồng mình”, khi được tiếp nối truyền thống hào hùng bốn nghìn năm của dân tộc. Con người miền núi luôn kiên cường trước khó khăn nhưng sống rất nghĩa tình :
“Người đồng mình thương lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.”
(Nói với con  - Y Phương )
Dù giọng thơ khác nhau,sáng tác ở hai thời điểm khác nhau, đề tài khác nhau,các đối tượng khác nhau ,“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và ”Nói với con” của Y Phương  đã bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam.  Đó là hình ảnh những con người  kiêu hãnh, hiên ngang, kiên cường, bất khuất  trước mọi nguy nan, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ trong cuộc sống và  biết yêu thương, che chở đùm bọc nhau. Qua đó, tác giả bộc lộ phẩm chất cao quý, truyền thống  đáng tự hào của con người Việt Nam đó là truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc Việt Nam.
Những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là anh hùng trên chiến trận của đạn bom kẻ thù. Họ chính là những anh hùng của thời đại, những dũng sĩ can trường .Họ ra đi, để lại sau lưng là gia đình, là xóm làng thân thương, ra đi với lý tưởng cao đẹp dựng xây đất nước hòa bình. Chúng ta sẽ mãi nhớ, mãi không quên về một thời đạn bom, về một thời lớp lớp người ra tiền tuyến. Hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn mới hào hùng làm sao :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
( Bài thơ về tiểu đội không kính - Phạm Tiến Duật)
Bài thơ nổi bật lên một hình tượng những chiếc xe không kính.Hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả "anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp" của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về "những chiếc xe không kính" thật đơn giản, tự nhiên :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Hai câu thơ như một lời hỏi đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính. Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hình ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo,nghệ thuật. Bằng những câu thơ gần với văn xuôi hấp dẫn người đọc và các điệp ngữ “không có...không phải...không có, bom giật bom rung” đã làm cho âm hưởng bài thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.Vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích chiến tranh và làm nổi bật hình ảnh người chiến sỹ lái xe can trường, dày dạn trong khói lửa.Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
Khi mà sự sống cái chết chỉ cách nhau có gang tấc, khi mà những đợt bắn phá của địch cứ liên tiếp, những quả bom nổ chậm đang rập rình đe doạ thì người ta có thể rất lo âu. Nhưng những người lính Trường Sơn vẫn ung dung nhìn bao quát đất trời.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
 Một tư thế hoàn toàn tự tin, chủ động trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Đạn bom quân thù không cản được cái thế nhìn thẳng hướng của người chiến sĩ lái xe. Trong cái nhìn mang vẻ phóng khoáng kia, rọi sáng một niềm lạc quan, thể hiện tâm thế của một thời “tiếng hát át tiếng bom”.Một cái nhìn bao la khoáng đạt giữa chiến trường. Điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh. Bầu không khí căng thẳng với “bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.Thời đại đã cung cấp hiện thực sôi động quý giá để nhà thơ khắc hoạ những hình ảnh đẹp về những chiến sĩ lái xe Trường Sơn làm xúc động lòng người. Chính các anh đã làm nên một con đường Trường Sơn huyền thoại, làm nên những trang sử chói lọi cho lịch sử Việt Nam thời chống Mỹ.
Và bằng giọng thơ tâm tình, Y phương đã bộc lộ được vẻ đẹp đáng quý của con người quê hương. Quê hương luôn chan chứa tình yêu thương, luôn sẵn sàng chia sẻ, lo lắng cho con, cho tất cả mọi người. Người đồng mình đáng yêu bởi sự giản dị và tài hoa
“Người đồng mình thương lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.”
(Nói với con  - Y Phương )
Trên quê hương thơ mộng nghĩa tình, người đồng mình hiện lên trong cuộc sống lao động cần cù mà tươi vui:
"Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát".
Giọng thơ vang lên đầy thiết tha và tự hào. “Người đồng mình” là người bản mình, người quê mình người vùng mình, là những người cùng sống trên một miền đất, cùng quê hương, cùng một dân tộc.Y Phương có cách gọi rất độc đáo, rất gần gũi và thân thương về những con người quê hương. Đó là cách nói mộc mạc, mang tính địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm.Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Với hình thức câu cảm thán, người đọc cảm nhận lời tâm tình được cất lên tự đáy lòng thương mến của người cha về người đồng mình. Họ đáng yêu bởi họ là những con người yêu lao động. Với đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, họ đã “đan”, “cài”, “ken”…và cuộc sống như nở hoa dưới đôi bàn tay cần cù, sáng tạo của họ…  Những động từ đan, cài, ken vừa nói lên những công việc cụ thể của người lao động vừa gợi ra sự gắn bó quấn quýt. Hình ảnh “đan lờ”, “vách nhà” hai công việc lao đông gắn liền với đứa trẻ theo từng lứa tuổi, còn bé thì đan lờ bắt cá, lớn hơn thì dựng nhà, ken vách. Hình ảnh “nan hoa” nói lên bàn tay lao động tài hoa, khéo léo. Vách  nhà  của  họ  không chỉ  được  ken bằng những vật liệu thông thường mà còn ken bằng“câu hát”  tràn ngập niềm vui, tinh thần lạc quan. Chỉ hai câu thơ giản dị mà gói trọn ở đó hình ảnh tươi đẹp của cuộc sống con người dân tộc quê ông. Những công việc lao động thường ngày trở nên thơ mộng hơn, phong tục, thói quen sinh hoạt làm đời sống tinh thần người dân thêm phong phú.
 Từ mạch cảm xúc ấy, tác giả khắc họa hình ảnh “Rừng cho hoa/ Con đường cho những tấm lòng” mang đậm cảnh sắc thanh bình của quê hương miền núi. Rừng đâu chỉ cho nhiều gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa Hoa vừa mang vẻ đẹp thực vừa nói lên những gì đẹp đẽ, tinh hoa của dân tộc. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yêu, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuộc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang một ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của con. Con đường quê hương đã rộng mở để đón con vào đời, đi vào cuộc sống tâm hồn con.Tác giả đã sử dụng lối diễn đạt của người miền núi để tạo ra những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang tính khái quát cao mà vẫn giàu chất thơ bay bổng về vẻ đẹp trong cuộc sống của người dân tộc, đó là điểm tựa để cho con khôn lớn trưởng thành, có sức mạnh bay cao, bay xa. Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, nhà thơ giúp ta hình dung được hình ảnh đáng yêu của người đồng mình giữa núi rừng thơ mộng, hiền hòa. Vẻ đẹp của họ được gợi ra từ cuộc sống lao động bình dị, từ bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo. Họ có niềm vui giản dị, tinh tế ngay trong cuộc sống mộc mạc đời thường.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật ,”Nói với con” của Y Phương   đã tái hiện thành công hình  ảnh người chiến sĩ và “người đồng mình” rất đỗi thân thương -những con người kiên cường, bất khuất chịu đựng mọi khó khăn gian khổ giành lại cuộc sống và xây dựng cuộc sống. Từng câu thơ, từng ý thơ đem đến cho người đọc sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ, kính phục đối với những con người đã làm lên hai tiếng VIỆT NAM. Qua Hai bài thơ, ta thấy sức mạnh truyền thống vẻ vang của dân tộc. Chúng ta tự hào biết bao về một Trưòng Sơn năm xưa, tự hào sao về những con người làm nên những bản hùng ca bất diệt,đem đến cuộc sống thanh bình, thịnh vượng cho đất nước.

Thứ Tư, 11 tháng 6, 2014

hình ảnh người lính thanh nien xung phong trong bttdxkk va nnsxx

Không hiểu vì sao mỗi lần nghĩ đến đất nước và con người Việt nam, mỗi chúng ta lại nghe vang vọng trong tâm chí những câu thơ của Huy Cận:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững,
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực, sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà.
Sảng khoái biết bao ! Tự hào biết bao! Trong tâm trí ta bỗng cuồn cuộn đổ về dòng lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc. Bừng sáng trong tâm hồn ta bốn ngàn năm của cha ông với những chiến công dựng nước và giữ nước, với trời bể ân tình thuỷ chung, yêu thương đùm bọc nhau. Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.Ta nhớ Thao, Nho, Phương Định trong "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; và những người lính lái xe dũng cảm trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật và "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê là những tác phẩm  xúc động, hào hùng về những người lính thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Các tác giả đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của những người lính trẻ, những con người ngày đêm ra tiền tuyến vì miền Nam ruột thịt. Con người hiện lên trong trang thơ , trang văn của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê là một tập thể anh hùng đấy hiên ngang khí phách hào hùng. đã lắng nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghị lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà ngang tàng bất khuất.
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật là những dòng tâm sự đầy tình cảm về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Phạm Tiến Duật không chỉ tái hiện lại  hình ảnh của những chiếc xe không kính mà còn khắc tạc hình ảnh của những người lính  lính lái xe kiên cường, dũng cảm , ngang tàng với một đời sống tình cảm hết sức phong phú- tình đồng đội đồng chí. Phạm Tiến Duật đã khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc trên những chiếc xe đặc biệt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
( Bài thơ về tiểu đội không kính - Phạm Tiến Duật)
Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực ( chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:
            Không có kính không phải vì xe không có kính
            Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
 Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Những “ bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe.  Bom đạn chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy biến dạng. Bom đạn đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước.  Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.Hình tượng những chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính.
Mục đích Phạm Tiến Duật miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh.Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động:
            Ung dung buồng lái ta ngồi
            Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn dữ vững tư thế hiên nghang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
Còn hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê được khắc hoạ lên từ cuộc sống gian khổ  nguy hiểm của họ. Bằng sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Lê Minh Khuê đã dựng lên bức chân dung người lính thanh niên xung phong  vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại cả dân tộc kháng chiến chống Đế quốc Mĩ. Đó là bức chân dung được khắc tạc bằng cả tình yêu của Lê Minh Khuê đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.  Trong bức chân dung đó, Phương Định, cô nữ sinh Hà thành trở thành nữ thanh niên xung phong được tác giả thể hiện thật chân thực giữa chiến trường khốc liệt.Nhất là khi cô phá bom một mình.Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần, cô có nghĩ tới cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”.Tâm trạng Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể ,tinh tế đến từng cảm giác. Mỗi lần phá bom là mỗi lần tiếp xúc với công việc vô cùng nguy hiểm. Phương Định có cảm giác là “Các anh cao xạ”ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của mình để rồi lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng :” Tôi đến gần quả bom …tôi sẽ không đi khom, các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới ”.. Cô không sợ nữa, không đi khom mà cứ đàng hoàng mà bước tới”. Đó là những ý nghĩ trong sáng, cao thượng. Đó là tư thế ngẩng cao đầu của cô gái bằng một tâm lý kiêu hãnh trước cái nhìn động viên tin tưởng của đồng đội. Khi ở bên quả bom, kề sát cái chết im lìm cảm giác căng thẳng của Định được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết, từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn hơn : “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi, tôi rùng mình và bỗng thấy  tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”.  Mỗi chữ, mỗi lời trong đoạn miêu tả ấy làm hiện lên đậm đặc, sắc sảo từng nét cảm giác của cô gái đang đối diện với cái chết. Không thể hiện sự  gan dạ, dũng cảm trước hiểm nguy một cách thô cứng theo kiểu ngợi ca: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”( Phạm Tiến Duật) hay “Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng”( Tố Hữu). Minh Khuê thể hiện những nét tâm lý tinh tế, chân thật làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn. Phải chăng chất mơ mộng của tâm hồn giữa khói lửa là chiều sâu của tinh thần gan dạ, dũng cảm.Đó là công việc hàng ngày đã quen của Định. Công việc hiểm nguy ấy khiến ba cô gái thanh niên xung phong trở nên thật phi thường, thật đáng khâm phục.
Trong đội ngũ điệp trùng ấy của thế hệ trẻ trên đường Trường Sơn thời đánh Mĩ, bên cạnh những người lính trẻ, hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong làm nên vẻ đẹp của thời đại toàn dân đánh Mỹ. Đã có biết bao cô gái để lại cả tuổi xuân của mình ở Trường Sơn, họ mãi mãi là những ngôi sao sáng, ánh sáng của tâm hồn ấy, tình yêu Tổ quốc ấy được Lâm Thị Mỹ Dạ ca ngợi :
Em đã lấy tình yêu Tổ Quốc của mình thắp lên ngọn lửa
đánh lạc hướng quân thù hứng lấy luồng bom.
Cùng với đồng đội của mình. Phương Định là vẻ đẹp đầy tự hào của thế hệ trẻ thời chống Mĩ. Họ là nhũng người có tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, có tinh thần dũng cảm.
"Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng. Các tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật mãi là những bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở.  Và vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian.

k3 vlb- mxnn

Việt Nam- mảnh đất hiền hòa cong cong hình chữ S đã và đang nuôi dưỡng biết bao tâm hồn của bao thế hệ nam thanh nữ tú, đã làm nên vẻ đẹp giữa đất nước và con người, nền văn hóa và bản sắc dân tộc. Vẻ đẹp ấy đã in dấu ấn đậm đà trong văn học, trong thơ ca, nhạc họa … và mãi bất tử với thời gian. Đến với Viếng lăng Bác của Viễn Phương, Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải chúng ta không chỉ bắt gặp tình cảm con người dành cho quê hương đất nước hay trao tặng cho con người mà hiện hữu trong đó là vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam. Người Việt Nam luôn dành trọn một tình yêu cao cả , tự hào nhất đối với quê hương đất nước mình như Thanh Hải :
“Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
( Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
Và con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh nào cũng không bao giờ quên được cội nguồn,  luôn ghi nhớ công ơn những người có công với tổ quốc :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
                      ( Viếng lăng Bác – Viễn Phương )
Viếng lăng Bác của Viễn Phương, Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải mượn ngôn từ của thơ ca  để nói lên nỗi niềm thầm kín chứa đựng trong họ cũng như bao người dân Việt Nam khác. Đó là tình yêu dân tộc, là niềm vui, là niềm lạc quan trong cuộc sống còn bao khổ cực, là những gì gần gũi bình dị nhất.Nhưng trong cái bình dị đó lại chứa một tâm hồn rất đỗi thanh cao trong sáng .
Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của lòng người quyện vào nhau trong câu thơ mượt mà,gian dị của Thanh Hải khơi lên và chảy đằm thắm trong lòng ta một sức sống vừa dịu dàng, vừa rạo rực, mãnh liệt. Từ cảm xúc mùa xuân của thiên nhiên đất trời Thanh Hải suy tư về quê hương đất nước trước khung cảnh mùa xuân. Nhà thơ tự hào, tin tưởng con người và cuộc sống của quê hương, đất nước khi vào xuân.
“Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Âm điệu  các câu thơ trầm lắng suy tư như bâng khuâng, ngẫm nghĩ:
“ Đất nước bốn ngàn năm
   Vất vả và gian lao”
Nhà thơ đang đứng trên trục thời gian để nhìn lại quá khứ bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Suốt chặng hành trình ấy, lịch sử đã có không ít những trang vàng và những điểm son chói lọi, cũng không phải không có những giai đoạn tăm tối đến tột cùng.  Các câu thơ của Thanh Hải cuồn cuộn trong tâm trí ta về dòng lịch sử bốn ngàn năm “vất vả và gian lao “của dân tộc. Bừng sáng trong tâm hồn ta bốn ngàn năm của cha ông với những chiến công dựng nước và giữ nước, với trời bể ân tình thuỷ chung như nhất, yêu thương đùm bọc nhau của những con người quen đứng đầu sóng gió, chống lại mọi thế lực thù địch để giành lấy quyền sống, quyền được làm người.Mỗi mảnh đất quê hương chúng ta đều mang hơi thở cuộc sống của những ngày cha ông gian khổ khẩn hoang vỡ đất. Con người Việt Nam đổ mồ hôi, xương máu gắn chặt tâm hồn mình với mảnh đất thiêng liêng ấy. Thiên nhiên đất nước giàu đẹp nhưng cũng lắm thử thách, hăm doạ rập rình theo mỗi bước đi lên của con người Việt Nam. Qua bao phong ba của lịch sử, dân tộc ta đã thể hiện một sức sống mãnh liệt: "Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa". Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất và”, “gian lao”. Từ ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão dông, chiều ngăn nắng lửa”, đói nghèo không buông. Đúng là:
“Việt Nam ơi Việt Nam
Tiếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt
Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục
Dân tộc ta không chịu cúi đầu”
Từ điểm nhìn của hiện tại, nhà thơ xoay hướng đến tương lai:
                        “ Đất nước như vì sao
                        Cứ đi lên phía trước”
Nhịp thơ hào hứng vui say trở lại khi tác giả nhìn thấy tương lai huy hoàng của Tổ quốc. Sử dụng nghệ thuật so sánh, tác giả đã cụ thể hóa đất nước như một vì sao tỏa sáng trên bầu trời, cứ tiến mãi về phía trước. Nhà thơ như khẳng định  lòng tin  vào đất nước . Một đất nước có sức mạnh  trỗi dậy xé màn đêm đen tối  mà lao về phía trước. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao lấp lánh không chói lọi nhưng bền vững, trường tồn. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ Việt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. . Từ “cứ” khẳng định mãnh mẽ quy luật tất yếu “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển khổng ngừng của đất nước.Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.
Thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.Với những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm, bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn dồn nén đối với Bác. Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta. Cùng dòng người nối tiếp nhau vào lăng viếng Bác, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
                      ( Viếng lăng Bác – Viễn Phương )
Niềm xúc cảm của nhà thơ chợt dâng trào và òa vỡ thành tiếng thổn thức khi nhìn thấy Bác :
                        Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
                        Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Cụm từ giấc ngủ bình yên là phép nói giảm nói tránh trong thơ. Tác giả không chỉ dừng lại ở việc giảm nhẹ sự đau buồn mất mát khi nói về cái chết mà còn miêu tả rất thực hình ảnh Bác trong lăng. Sự ra đi của Bác thanh thản và nhẹ nhàng như bước vào giấc ngủ an lành, tự tại. Giấc ngủ ấy chỉ có được ở những người có tâm hồn cao đẹp, biết sống vì hạnh phúc của mọi người. Khi ra đi, họ sẽ không vướng mang, ràng buộc, ung dung tự tại “Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay ”. Bác Hồ chính là người như thế, cả cuộc đời Bác chỉ lo cho dân cho nước, cho hạnh phúc của muôn nhà :
                        Bác để tình thương cho chúng con
                        Một đời thanh bạch chẳng vàng son
                        Mong manh áo vải hồn muôn trượng
                        Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
                                                                        (Tố Hữu, Bác ơi !)
Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền.Đẹp làm sao, lúc sinh thời Bác cùng trăng bầu bạn, đồng hành qua bao chặng đường Cách mạng. Giờ đây, đến khi Bác ra đi ánh trăng vàng cũng tiếp tục đồng hành đưa tiễn Người vào cõi hư vô.
Đến đây, bỗng nhà thơ cảm thấy trào dâng một niềm đau vô hạn :
                        Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
                        Mà sao nghe nhói ở trong tim
Hình ảnh ẩn dụ trời xanh để chỉ Bác. Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, cũng như Bác luôn sống mãi trong lòng bao thế hệ người dân Việt Nam. Hai câu thơ xây dựng theo hình thức đối lập, giữa cái biết và cảm giác nhói trong tim. Hai sự việc đối lập trong cùng một thể thống nhất: tình cảm kính yêu đối với Bác.Biết là lí trí và nhói là cảm xúc. Lí trí vẫn luôn nhắc nhở nhà thơ rằng Bác vẫn sống trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng – Bác đã không còn. Nỗi đau quá lớn, vì vậy mà mọi lập luận đều trở nên vô nghĩa.Nỗi đau là có thật, xuất phát từ sâu thẳm trái tim của đứa con miền Nam ra thăm Bác ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Đây là lần đầu tiên Viễn Phương được gặp Bác. Trong suốt những năm đất nước bị chia cắt, nhân dân miền Nam quyết tâm chiến đấu, ai cũng mong có lúc:
"Miền Nam chiến thắng mơ ngày hội
Đón Bác vào thăm thấy Bác cười"
  Nhưng, niềm mong ước ấy không bao giờ thành hiện thực. Bác đã ra đi khi chưa thực hiện được niềm mong ước cuối cùng là vào Nam gặp mặt đồng bào, những người con vẫn ngày đêm mong nhớ được gặp mặt Bác.
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha"
  Vì vậy, sự ra đi của Bác là một mất mát to lớn không gì bù đắp được đối với một người con Nam Bộ như Viễn Phương. Ngày hội non sông không chứng kiến nụ cười của Bác rạng rỡ,.
Vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam chỉ được Viễn Phương, Thanh Hải  thể hiện ở một ít góc độ nhưng đủ để chúng ta cảm nhận rõ vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng của con người Việt Nam. Vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho các tác phẩm sống mãi với thời gian.Chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của con người đất Việt. Và ta mãi cất lên những bài ca không bao giờ quên - bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết mấy hai tiếng: Việt Nam.

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Thiên nhiên trong khổ 1 hai bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải và Sang thu của Hữu Thỉnh.


Từ văn học trung đại cho đến văn học hiện đại, từ thơ cổ cho đến thơ mới, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa của quê hương đã trở thành những hình ảnh khó phai mờ trong các tác phẩm của nhà văn, nhà thơ. Chúng ta thấy hình ảnh quê hương hiện ra ở thơ  vô cùng thân mật, gần gũi, đáng yêu và đầy quen thuộc, gợi bao cảm xúc đẹp đẽ của con người…Quê hương chúng ta vốn có vẻ đẹp dân dã, bình dị của sự sống mơn mởn. Quê hương cao cả và thiêng liêng, thân thuộc và bình dị, chúng ta có thể bắt gặp trong bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ “ của Thanh Hải hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh.Viết về quê hương, đất nước thì mỗi nhà thơ lại có một cảm nhận riêng. Nếu hình ảnh đất nước trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được soi chiếu qua lăng kính mùa xuân :
“ Mọc giữa dòng sông xanh
  Một bông hoa tím biếc
 Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng” ( Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
thì trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh – quê hương, đất nước lại được soi chiếu qua bức tranh giao mùa cuối hạ sang thu:
“ Bỗng nhận hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về” (Sang thu - Hữu Thỉnh)
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Mỗi vần điệu trong bài thơ là một bức hoạ về cuộc sống.Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải  ngoài yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.
Hình ảnh quê hương, đất nước hiện lên qua cảnh sắc mùa xuân – thiên nhiên xứ Huế tinh khôi, trong trẻo, đầy sức sống. Mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của đất nước con người:
 “ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hoá đất trời. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi tắn đầy sức sống.Sau những ngày đông lạnh lẽo, thiên nhiên lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Mùa xuân đến, báo hiệu bằng những cảnh sắc thiên nhiên quen thuộc : dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và chim chiền chiện. Mùa xuân đã hiện diện trên toàn cảnh, trên tạo vật : đất trời, hoa lá, chim muông…. Tô điểm sắc màu cho không gian ấy, có màu xanh cây cỏ, xanh của dòng sông, màu tím của hoa và cả màu của mây trời :
Mọc giữa dòng sông xanh
 Một bông hoa tím biếc
 Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
            Cảnh sắc thiên nhiên ấy không chỉ đẹp mà còn sinh động.Từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ vang lên như một điểm nhấn, một sự phát hiện đầy cảm xúc của nhà thơ. Hai câu thơ đầu vẽ nên một không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông xanh trong chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung. Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay hoa súng mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê mà ta từng gặp trong những vần thơ của khác:
                                    “ Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
                                      Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
                                      Hoa lục bình tím cả bờ sông…” ( Lê Anh Xụân)
            Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự. Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động. Bức tranh xuân còn được điểm xuyết thêm bằng âm thanh rộn rã, tưng bừng của con chim chiền chiện hót vang trời. Tiếng hót của chim, đường nét uốn lượn quanh co của con sông, màu tím biếc của bông hoa vẽ  nên  một bức tranh mùa xuân đầy sức sống mãnh liệt trên quê hương tác giả.
Trước vẻ đẹp ấy, nhà thơ ngất ngây sung sướng không ngăn được dòng cảm xúc. Những từ cảm thán “ ơi”, “ hót chi” vang lên là tiếng lòng nao nức say sưa của nhà thơ khi lần đầu tiên phát hiện vẻ đẹp đơn sơ mà say đắm của cảnh vật quê hương.
                                    “ Từng giọt long lanh rơi
                                       Tôi đưa tay tôi hứng”
Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch liên tưởng của bài thơ “ giọt long lanh” còn là giọt âm thanh đổ hồi của con chim chiền chiện… Hình ảnh có tính chất tượng trưng “tôi đưa tay tôi hứng”  là thái độ yêu thương, trân trọng của nhà thơ trước vả đẹp của đất trời. Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
 Tạm rời xa  mùa xuân của Thanh Hải  ta  tìm đến với cái tình non sông đất nước được khơi nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh,. Thi sĩ bộc bạch tình yêu đất nước  ở nhiều cung bậc.Hữu Thỉnh với cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét đã vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu”.Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị. Hình ảnh đất nước quê hương còn được nhà thơ phác họa qua phút gia thừa cuối hạ sang thu thật tinh tế và sâu sắc. Bắt đầu từ một khu vườn ngoại ô của vùng đồng bằng Bắc Bộ :
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả  vào trong gió se,
Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Vì sao tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi” mà không phải là các hương vị khác? Hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã,không nồng nàn  nhưng là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ.Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm nhận ra! Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá. Từ bao giờ nhỉ, thu về?  Thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! “Phả” là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột.Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây  là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.
Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn :
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về .
Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”?.Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu  về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi : Hình như thu đã về!? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng  êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu .Khổ thơ khép lại bằng câu thơ “Hình như thu đã về”. Từ  “hình như” không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương ổi thơm chín, vàng ươm đến cái duyên dáng, yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.
Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến.Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ  tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu  thiết tha, nồng hậu của quê nhà.

Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống.  nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp.  Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ,và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy  ý nghĩa.