Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

Lý thuyết văn 12 - F

BÀI THƠ “ĐÀN GHI-TA CỦA LOR-CA” -  THANH THẢO.
ĐỀ 1
Đề bài
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của Thanh Thảo: “những tiếng đàn bọt nước….chàng đi như người mộng du”
Mở bài
     Thanh Thảo là nhà thơ trẻ tài hoa, khẳng định tài năng từ trong kháng chiến chống Mĩ. Sau 1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới văn học, ông có  nhiều nỗ lực trong cách tân thơ Việt với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm qua hình thức thơ tự do, hiện đại bằng những hình ảnh và ngôn từ mới mẻ. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” là một tiêu biểu. Bài thơ trích trong tập thơ “Khối vuông Ru-bic” (1985) của ông đã thể hiện sự ngưỡng mộ, ca ngợi tinh thần đấu tranh cho tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của nhà thơ G. Lor-ca, một nghệ sĩ tài hoa sáng chói của văn học Tây Ban Nha ở đầu thế kỉ 20. Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca trong bài thơ cứ làm ám ảnh, day dứt trong tâm hồn nhà thơ Thanh Thảo cũng như người đọc, mà nổi bật là mười hai dòng thơ đầu trong bài thơ:                        
                                             “dẫn chứng thơ 12 dòng tiếp
HCST
        Bài thơ lấy cảm hứng từ những giây phút bi phẫn trong cuộc đời của Lor-ca và câu nói  “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” (Ghi nhớ - Lor-ca) để sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng với phong cách tượng trưng có pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca. Thơ tượng trưng – siêu thực đề nghị lối viết tự động, cho rằng thơ là mạch cảm xúc tuôn tràn nên dường như không mạch lạc, hình ảnh mới lạ, không viết hoa đầu dòng, không ngắt câu. .
Vài nét về người nghệ sĩ Lor-ca
           Lor-ca không chỉ là một nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia thiên tài mà còn là nhà chống phát xít kiên cường. Ông bị sát hại năm 1936. Thanh Thảo là một nhà thơ có mối quan tâm đặc biệt đối với những con người có nhân cách và nghĩa khí dù số phận có thể ngang trái. Trong mạch cảm hứng ấy, trường hợp Lor-ca  được xem là thành công hơn cả, mà ngay mười hai dòng đầu của bài thơ cũng đã rất đặc sắc
Đoạn 1 (6 câu đầu
Khổ thơ đầu là những lời tự sự kể lại cuộc đời Lorca mà Thanh Thảo là nhà chép sử cần mẫn và đầy nhạy cảm. Mỗi chi tiết trong bài thơ đều gợi lại hình ảnh của Lorca, chàng nghệ  sĩ, người chiến sĩ cách mạng có lí tưởng cao đẹp nhưng số phận bất hạnh:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
Bài thơ mở ra với hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” ngay lập tức gợi một cái gì đó mong manh, chông chênh và vụn vỡ. Phải chăng đó là cuộc đời mong manh, bạc mệnh của Lorca ? Câu thơ mở đầu gợi cảm giác mỏng manh, xót thương để rồi theo người đọc suốt cả bài thơ. Nếu như trước đây, câu thơ “tiếng đàn xưa đứt ngang dây” của Tố Hữu viết về Nguyễn Du vốn đã tội nghiệp thì đến đây, “những tiếng đàn bọt nước” của Thanh Thảo viết về Lorca lại càng tội nghiệp hơn. Câu thơ đọc lên nghe mà xót xa! Cả sự hẫng hụt nữa!
Tiếp đó, tác giả giới thiệu về Lorca trên nền văn hóa rộng lớn của đất nước Tây Ban Nha với những hình ảnh tiêu biểu: áo choàng đỏ gắt, hoa li-la. “Áo choàng đỏ gắt” gợi ta nhớ đến môn đấu bò tót, một hoạt động văn hóa rất đặc trưng của TBN. Đó là những trận đấu bò tót mà ở đó luôn hiển hiện tấm “áo choàng đỏ gắt” của người hiệp sĩ đấu bò để kích thích sự hung hăng của những con bò tót, nghĩa là tăng thêm phần kịch tính. Khi bước vào đấu trường, người hiệp sĩ đã chuẩn bị tinh thần cho cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào.
Trong không gian văn hóa Tây Ban Nha ấy, ta thấy như hiện lên những cuộc chiến đấu khác. Cũng tấm áo choàng ấy, cũng tinh thần ấy, người hiệp sĩ Lorca bước ra đấu trường với một quyết tâm cao dù là trong cuộc chiến không cân sức với bọn phát xít Phrang-cô; còn trên đấu trường nghệ thuật thì đó là cuộc chiến giữa nhà cách tân vĩ đại Lorca với nền nghệ thuật cũ kĩ, lạc hậu, già nua. Cả hai cuộc chiến đều rất cao cả, rất vĩ đại, khiến ta không khỏi cảm phục và thương mến.
Chưa hết, Lor-ca còn nổi lên như một ca sĩ dân gian đơn độc, một kị sĩ lãng du phóng khoáng yêu tự do nhưng thầm lặng:
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếch choáng
trên yên ngựa mỏi mòn...
           Hàng loạt hình ảnh: hát nghêu ngao, đi lang thang về miền đơn độc, với vầng trăng chếnh choáng, trên yên ngựa mỏi mòn... là những hình ảnh lãng mạn, tượng trưng vừa làm nổi bật hình tượng nghệ sĩ Lor-ca vừa gợi sự mòn mỏi, cô độc trong tâm hồn con người ấy. Câu thơ chậm lại với tiếng lila lila lila mang âm hưởng dân ca Tây Ban Nha vang về đâu đó trong kí ức, nghe tha thiết, dìu dặt, mà đau đớn, xót thương.
TK khổ 1
         Tóm lại, chỉ với sáu câu thơ đầu, bằng bút pháp tự sự, hình ảnh thơ tượng trưng, Thanh Thảo đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng gián đoạn nhưng rõ nét về Ph.G. Lorca, một chiến sĩ yêu tự do, một nghệ sĩ dũng cảm, cách tân nghệ thuật trong khung cảnh chính trị và nghệ thuật Tây Ban Nha. Đoạn thơ với những sáng tạo độc đáo, giàu chất nhạc và chất họa còn cho thấy cả những nỗ lực đổi mới thơ ca của Thanh Thảo, một con người cũng rất tâm huyết với thơ ca.
P/tích 6 dòng thơ tiếp
(Cái chết Lor-ca, khát vọng cách tân nghệ thuật đành dở dang

           Sang khổ thơ thứ hai, nhà thơ Thanh Thảo đã tập trung khắc họa đậm nét ấn tượng về cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do đã bị bọn phát xít Phrăng-cô dẫn ra pháp trường sát hại:
                                                            Tây Ban Nha   
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị  điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
              Chàng nghệ sĩ yêu đời, yêu tự do ấy rong ruổi trên những nẻo đường cất lên lời ca tiếng hát nghêu ngao giữa thiên nhiên TBN thì bỗng kinh hoàng, áo choàng bê bết đỏ, Lorca bị  điệu về bãi bắn, chàng đi như người mộng du” giữa bầy ác quỹ. Thể chế độc tài Phrăng-cô đã bí mật bắt và điệu chàng về bãi bắn để phi tang một con người với tư tưởng tiến bộ vì lo sợ những ảnh hưởng của Lor-ca.
              Cụm từ “bỗng kinh hoàng” diễn tả sự bất ngờ đột ngột. Cái chết đã ập đến quá nhanh và phũ phàng, giữa lúc Lor-ca không ngờ tới. Nên áo choàng không còn “màu đỏ gắt” mà chuyển thành “bê bết đỏ”, hình ảnh hoán dụ  nhằm khắc họa hiện thực đẫm máu về cái chết bi thảm của Lor-ca. Người nghệ sĩ tài hoa ấy chết khi mới 38 tuổi, độ tuổi hứa hẹn nhiều thành công. Con người tài năng ấy đành gắn liền số phận tài hoa với tai ách:
                    “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần” (TK-ND).              
TK khổ 2
       Lorca lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái chết. Điều ấy tràn cả vào thơ ông. Ông đã từng kêu lên thảng thốt: Tôi không muốn nhìn thấy máu. Nhưng rồi, vào cái ngày định mệnh 19-8-1936, máu đã chảy tràn khắp đất nước Tây Ban Nha. Và máu ấy lại là máu của đứa con trung thành và vĩ đại của xứ bò tót dũng mãnh. Nhưng Lorca chấp nhận như người cách mạng đã chấp nhận “Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa”. Tâm hồn và tinh thần của Lorca đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại càng căm phẫn tội ác bấy nhiêu.
         Cái chết của chàng nghệ sĩ có đôi mắt sáng ngời như sao trời, mái tóc xanh mướt cỏ thảo nguyên cùng cây đàn ghi ta mang khát vọng dân chủ, mang niềm vui nỗi buồn của đất nước mình không chỉ là nỗi đau bàng hoàng đối với TBN mà còn là nỗi ám ảnh đối với toàn TG, trong lòng NDVN và của nhà thơ TT.
Kết bài
          Tóm lại, đoạn thơ đã xây dựng được hình tượng Lor-ca vừa đẹp, vừa cảm động với những khía cạnh khác nhau: một nghệ sĩ tự do và cô đơn, một cái chết oan khốc, bi phẫn bởi những thế lực tàn ác, một tâm hồn nghệ sĩ bất diệt. Nói khác hơn, Lor-ca là một hình tượng bi tráng về người nghệ sĩ chân chính trong một môi trường bạo lực thống trị đã sống và chết rất cao đẹp. Qua việc thể hiện cái chết đau xót của Lor-ca, bài thơ còn là tiếng nói tri âm của Thanh Thảo với nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ Lor-ca.
           Thái độ ngưỡng mộ người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX bị giết hại một cách phủ phàng dược biểu đạt bằng hình thức nghệ thuật độc đáo: kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc về kết cấu; Bài thơ có phong cách tượng trưng pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca; Hình ảnh thơ phong phú, ngôn từ mới mẻ góp phần làm nên diện mạo phong phú của thơ ca VN sau 1975


ĐỀ 2
Đề bài
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của Thanh Thảo: “tiếng ghi-ta nâu….long lanh trong đáy giếng”.
Mở bài
     Thanh Thảo là nhà thơ trẻ tài hoa, khẳng định tài năng từ trong kháng chiến chống Mĩ. Sau 1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới văn học, ông có  nhiều nỗ lực trong cách tân thơ Việt với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm qua hình thức thơ tự do, hiện đại bằng những hình ảnh và ngôn từ mới mẻ. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" là một tiêu biểu. Bài thơ trích trong tập thơ "Khối vuông Ru-bic" (1985) của ông đã thể hiện sự ngưỡng mộ, ca ngợi tinh thần đấu tranh cho tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của nhà thơ G. Lor-ca, một nghệ sĩ tài hoa sáng chói của văn học Tây Ban Nha ở đầu thế kỉ 20. Từ vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca, nhà thơ Thanh Thảo bộc lộ niềm tin và ngưỡng mộ, đồng cảm sâu xa về Lor-ca. Lor-ca sẽ sống mãi:
                                             “dẫn chứng thơ
HCST
        Bài thơ lấy cảm hứng từ những giây phút bi phẫn trong cuộc đời của Lor-ca và câu nói  “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” (Ghi nhớ - Lor-ca) để sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng với phong cách tượng trưng có pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca. Thơ tượng trưng – siêu thực đề nghị lối viết tự động, cho rằng thơ là mạch cảm xúc tuôn tràn nên dường như không mạch lạc, hình ảnh mới lạ, không viết hoa đầu dòng, không ngắt câu. .
Vài nét về người nghệ sĩ Lor-ca
           Lor-ca không chỉ là một nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia thiên tài mà còn là nhà chống phát xít kiên cường. Ông bị sát hại năm 1936. Thanh Thảo là một nhà thơ có mối quan tâm đặc biệt đối với những con người có nhân cách và nghĩa khí dù số phận có thể ngang trái.          Cái chết của chàng nghệ sĩ có đôi mắt sáng ngời như sao trời, mái tóc xanh mướt cỏ thảo nguyên cùng cây đàn ghi ta mang khát vọng dân chủ, mang niềm vui nỗi buồn của đất nước mình không chỉ là nỗi đau bàng hoàng đối với TBN mà còn là nỗi ám ảnh đối với toàn TG, trong lòng NDVN và của nhà thơ TT.
Khổ 3 6 dòng
Cái chết bất ngờ đến với Lor-ca. Một con người trong sạch và vô tội, dù luôn bị ám ảnh về cái chết của chính mình, vẫn không thể nghĩ là nó lại đến sớm thế và đến vào lúc chàng không ngờ nhất. Cảnh Lor-ca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, thảm khốc ấy tạo ra cú sốc dây chuyền được diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống những âm thanh vỡ tan ra thành màu sắc, thành hình khối, thành dòng máu chảy:                 
tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy
Sự chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn. “màu nâu” xuất hiện suy tư, trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn, màu nâu của đất đai, màu nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Di-gan bốc lửa. Và trước giây phút từ li, chàng đã ngước nhìn lên bầu trời xanh tha thiết ”bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng, bầu trời yêu thương nơi có bóng hình nàng Ma-ri-a thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu xanh của "tiếng ghita lá xanh biết mấy”. “Màu xanh” là sự hóa thân của Lorca và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây. Màu xanh của những vườn cam, màu xanh của thảo nguyên và những rặng ô-liu hay hàng bạch dương nơi Lor-ca đang yên nghỉ. Hai tiếng “biết mấy” nằm ở cuối câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ Lor-ca – vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.
         Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Đây là khúc biến tấu của tiếng đàn. Nó thay màu chuyển gam rất lẹ, biến ảo không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở, giọt này vỡ đi, giọt kia lại trào ra không dứt. Đó chính là sức sống! Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối, đường nét như hình hài của sinh mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa, cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hai tiếng “vỡ tan” vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài, hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản ghi-ta bi tráng đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn, nó ròng ròng máu chảy, nó uất nghẹn, tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi khát vọng chưa thành. Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du “Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của người sinh ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.
TK khổ 3
Tóm lại, tác giả đã dựng lên không gian kinh hoàng những ấn tượng chết chóc. Những cảm giác đau đớn uất nghẹn trước sự tàn bạo của bọn độc tài phát xít. Với điệp khúc dồn dập tác giả đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng và nỗi kinh hoàng trong cảm giác mất mát cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé lòng khi hình dung ra cảnh người nghệ sĩ tài ba bị sát hại. Trong trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo từng viết:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì  còn chi Tổ quốc?
       Đó có lẽ là tâm trạng Lorca lúc này: chấp nhận cái chết như lẽ tự nhiên trong đời chiến sĩ, nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
P/tích khổ 4

           Và Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang bung nở giữa bản hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghi-ta nồng nàn vi diệu. Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng, Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn đầy sức sống mãnh liệt.
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
         Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn? Có lẽ nên hiểu theo cách thứ hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm của tinh thần được kết tinh từ hương sắc cuộc đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang dại của nó như loài cỏ mọc hoang không gì có thể ngăn nổi chúng. Bởi có gì nhiều bằng cỏ? Có gì xanh bằng cỏ? Có gì mãnh liệt bằng cỏ trên mặt đất bao la?   Đây chính là sự bất tử, sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù Lor-ca hi sinh nhưng sản phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình, nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của Lorca vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Bằng hình ảnh biểu tượng, Thanh Thảo muốn khẳng định Lor-ca “Thác là thể phách, còn là tinh anh”.
          Không chỉ bất tử, tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng trăng. Một hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của nghệ thuật được kết tinh từ những giọt mồ hôi, từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật chân chính qua bao thời gian công sức đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là vẻ đẹp của cuộc đời Lorca đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay, nơi đáy giếng tối tăm và lạnh lẽo, nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công dân Lorca, lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Hình ảnh thơ đẹp và buồn được viết theo lối tượng trưng nhằm bày nỗi xót thương cái chết của một thiên tài và nỗi xót tiếc hành trình cách tân nghệ thuật dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Lời thơ bộc lộ niềm trân trọng và niềm tin bất tử, bất diệt vào tiếng đàn Lor-ca.
TK khổ 4
       Dù sao thì Lor-ca cũng đã mất. Thanh Thảo cũng như bất cứ ai có lòng tưởng mộ thiên tài đành phải thừa nhận định mệnh phũ phàng, khi đường sinh mệnh của nhà thơ đã dứt. Điều quan trọng hơn, là ông đã kịp hoà vào trong dòng sông tình cảm ái mộ của công chúng, để tiếp tục trôi chảy với thời gian.
Kết bài
          Tóm lại, đoạn thơ đã xây dựng được hình tượng Lor-ca vừa đẹp, vừa cảm động với những khía cạnh khác nhau: một nghệ sĩ tự do và cô đơn, một cái chết oan khốc, bi phẫn bởi những thế lực tàn ác, một tâm hồn nghệ sĩ bất diệt. Nói khác hơn, Lor-ca là một hình tượng bi tráng về người nghệ sĩ chân chính trong một môi trường bạo lực thống trị đã sống và chết rất cao đẹp. Qua việc thể hiện cái chết đau xót của Lor-ca, bài thơ còn là tiếng nói tri âm của Thanh Thảo với nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ Lor-ca.
           Thái độ ngưỡng mộ người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX bị giết hại một cách phủ phàng dược biểu đạt bằng hình thức nghệ thuật độc đáo: kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc về kết cấu; Bài thơ có phong cách tượng trưng pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca; Hình ảnh thơ phong phú, ngôn từ mới mẻ góp phần làm nên diện mạo phong phú của thơ ca VN sau 1975

TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” – NGUYỄN TUÂN
ĐỀ 1
Đề bài
Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.
Mở bài
              Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút và để lại cho đời nhiều tập tùy bút đặc sắc. Một trong những tác phẩm tùy bút tiêu biểu của ông phải kể đến tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc hình tượng con Sông Đà “hung bạo, trữ tình”. Trước khi Sông Đà trở thành dòng sông ánh sáng, nguồn cảm hứng cho thơ, nhạc, hoạ… thì con sông ấy đã tuôn chảy trên nhiều trang văn của Nguyễn Tuân. Tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễt Tuân đã biến dòng sông ấy trở nên hấp dẫn, gợi cảm.
HCST
          Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960). Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Giới thiệu chung
              Con sông là cảm hứng muôn đời của thơ ca. Với Nguyễn Tuân, qua những trang tùy bút của mình, sông Đà không còn là một thiên nhiên vô tri vô giác mà trở thành một hình tượng văn học, một sinh thể có tính cách, có tâm trạng độc đáo. Sông Đà có hai nét tính cách đối lập nhau vừa hung bạo, dữ dội, hùng vĩ vừa  trữ tình, dịu dàng, nên thơ” như nhà văn nhận xét trong tác phẩm. Hai nét tính cách đối lập của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm lĩnh thực tại của con người và phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân (tìm đến với những vẻ đẹp khác thường, những cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ dữ dội).
Hai câu đề từ
           Trước hết Sông Đà đến với ta qua những câu đề từ: Lời đề từ thứ nhất là tứ thơ:“Chúng thủy giai đông tẩu. Đà giang độc bắc lưu”. Mượn ý tưởng của Nguyễn Quang Bích, nhà văn Nguyễn Tuân nhấn mạnh thế độc đáo, nghịch ngược của Sông Đà giống như con ngựa bất kham. Sông Đà khác thường ngay từ dòng chảy của nó. Ông nhận ra sự đồng điệu giữa cái “ngông” của thiên nhiên với cái tôi cá nhân của mình. Lời đề từ thứ hai lấy ý của nhà thơ Ba Lan “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” là một câu cảm thán hé mở vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà.
Tính cách hung bạo

         Tính cách hung bạo của sông Đà được miêu tả ở ở khúc thượng nguồn hẹp và hiểm trở:Đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu – hẹp đến mức: đứng bên này, nhẹ tay ném hòn đá cũng sang bờ bên kia - con nai, con hổ có thể nhảy qua nhảy lại dễ dàng. Chổ ấy đúng ngọ, mặt sông mới nhận được ánh nắng; ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh…”. Vách đá, lòng sông được đặc tả bằng nhiều liên tưởng, so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà không chỉ bằng thị giác mà còn bằng xúc giác tạo cho con người cảm giác ghê rợn và nguy hiểm về cái vẻ bề ngoài đầy sức mạnh hoang dại của Sông Đà.
            Cái nguy hiểm của sông Đà còn được thể hiện ở mặt nước sông Đà trên sông Đà có nhiều vực xoáy, nhiều luồng chết, nhiều đá ghềnh và nhiều sóng thác”. Mà hiểm trở hơn, phải kể đến quãng mặt ghềnh Hát Loóngdài hàng trăm cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng như muốn đòi bằng được món nợ vô lí đối với người lái đò. Các điệp từ, điệp cấu trúc câu, nghệ thuật tăng cấp,... tạo ra nhịp điệu khẩn trương dồn dập. Sau câu chữ, nghe như có bão to sóng dữ đang rung chuyển. Gió, nước, đá... như hợp tác với nhau làm nên bộ mặt hung bạo của sông Đà.
            Chưa hết, ở Tà Mường Vát (phía dưới Sơn La), Sông Đà vô cùng dữ tợn với “những hút nước sâu như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu... Nước ở đây thở và kêu hồng hộc như cửa cống lớn bị sặc”. Cái chết bao phủ không thuyền nào dám men gần đến hút nước. “Bè gỗ rừng vô ý trôi ngang qua, lập tức bị lôi tuột xuống nhiều con thuyền cũng bị hút mất tăm – thuyền trồng cây chuối ngược, đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Nguyễn Tuân vừa tả vừa kể những địa danh thật của hút nước khiến cho bài văn mang màu sắc kí, kết hợp thủ pháp văn học và thủ pháp điện ảnh, nhà văn tạo cho người đọc cảm giác như đang được trực tiếp chứng kiến cảnh sóng nước hiểm trở. Con Sông Đà lúc này trông giống như loài thủy quái khổng lồ nham hiểm, ẩn chứa sức mạnh ghê gớm.
            Tính hung dữ của Sông Đà thể hiện đẩy đủ nhất ở hàng trăm con thác – mỗi con thác do một tử thần đá chốt giữ. Từ xa đã nghe tiếng thác với đủ mọi cung bậc: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Cũng có lúc thácrống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng...”. Nước (thủy) và lửa (hỏa) thuộc hai hành tương khắc. Vậy mà Nguyễn Tuân dùng lửa để tả nước. “Thủy – Hỏa đạo tặc” - đoạn văn gợi không khí một trận cuồng lửa có sức hủy diệt, gây ấn tượng về sự tàn phá khủng khiếp.
            Cái dữ tợn của sông Đà còn được thể hiện ở đám đá hòn, đá tảng trên sôngcả một chân trời đá. Bằng biện pháp nhân hóa, Nguyễn Tuân đã thổi hồn người vào đá sông làm cho nó trở nên sống động hẳn Hàng ngàn năm nay, đá vẫn mai phục trong lòng sông. Mỗi khi còn thuyền xuất hiện, nó lại nhổm dậy, vồ lấy... Chúng biến con sông Tây Bắc thành “trùng vi thạch trận” với bao cửa tử...  Thác liên kết với những thằng tướng đá mặt ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó…Nó đứng, nó ngồi, nó nằm tự động theo sở thích của đá to, đá bé khiến cho Sông Đà thành “thứ kẻ thù số một của con người” có đủ mưu ma chước quỷ nhằm hủy diệt con thuyền.
Có thể nói, “Sông Đà ác độc như một mụ dì ghẻ, chúa đất - con sông muôn đời làm mình làm mẩy với con người ở Tây Bắc”. Khi hung bạo nó như “dòng thác hùm beo tế mạnh trên sông nước”. Nó thách thức, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự. 
Sông Đà trữ tình

            Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ hung bạo như “kẻ thù số một” mà còn là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Nguyễn Tuân đã quan sát và miêu tả sông Đà thơ mộng, trữ tình ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Ở mỗi một góc nhìn, nhà văn đã so sánh sánh sông Đà với nhiều đối tượng khác nhau rất tài tình, tạo cho người đọc cảm giác ngạc nhiên, thán phục và nhận ra rằng không có nhà văn nào so sánh hay hơn, tài tình hơn nhà văn Nguyễn Tuân.
            Có lần nhà văn đi trên máy bay, từ trên cao nhìn xuống “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo và mù khói Mèo đốt nương xuân. Sau này, Nguyễn Tuân tiếp tục so sánh “sông Đà như một áng tóc tuôn dài ngàn ngàn, vạn vạn sải. Qua biện pháp so sánh, Sông Đà hiện lên mang dáng vóc của người thiếu nữ kiều diễm, căng tràn sức sống.
            Tiếp đó, nhà văn còn cảm nhận vẻ đẹp Sông Đà bằng con mắt của một họa sĩ ở vẻ đẹp sắc nước sông Đà:  mùa xuân xanh màu xanh ngọc bích”, một màu xanh trong anh ánh nắng trời; mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” vì sông mang theo phù sa. Có lẽ, Nguyễn Tuân yêu sông Đà bởi màu nước của nó trong ra trong, đục ra đục chứ không lờ lờ canh hến như ở sông Gâm và sông Lô. Sự biến đổi ấy khiến Sôn Đà không chỉ độc đáo, cá tính mà còn rất gợi cảm.
            Có lần nhà văn theo gót anh liên lạc, từ trong rừng đi ra, bằng cái nhìn từ xa, Sông Đà hiện ra như một “cố nhân”, một cuộc hội ngộ và niềm vui ùa tới bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Chưa hết, con sông còn lấp lánh chất thơ, chất họa như bức tranh cổ, đẹp như những dòng sông trong Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu (Lý Bạch), con sông cũng hết sức trữ tìnhDãi Sông Đà bọt nước lênh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình, của một người tình chưa quen biết (Tản Đà). Sông đẹp, tình người còn đẹp hơn. Đây không còn là văn xuôi nữa mà là một bức họa tuyệt đẹp, cái đẹp thể hiện ở ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân.
            Có lần nhà văn trôi thuyền trên Sông Đà, nhìn dòng sông bằng cái nhìn cận cảnh, lúc này Sông Đà đầy chất thơ hồn nhiên. Điển hình là ở khúc hạ lưu với dòng chảy êm, phẳng lặng, lững lờ như nhớ thương: Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, ... quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền trôi qua một nương ngô mới nhú lên mấy lá non đầu mùa... Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa- hình ảnh này gợi về quá khứ, gợi lại trăm năm cổ tích. Ở đoạn này, Nguyễn Tuân dùng nhiều thanh bằng nhẹ nhàng, giọng văn êm ả, câu văn mềm mại êm ả trải dài như dòng nước, sử dụng biện pháp “lấy động để tả cái thanh tĩnh” tuyệt cùng của bờ bãi sông Đà giúp người đọc thấy được vẻ đẹp muôn đời bất biến của con sông chảy qua năm tháng lịch sử. Con sông dưới trang viết của Nguyễn Tuân là một công trình nghệ thuật tuyệt vời, là một kì công của tạo hóa được viết bằng tình yêu quê hương đất nước sâu nặng và trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn.
ĐGC
         Nhìn chung, nhà văn đã vận dụng tất cả các giác quan và kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: quân sự, võ thuật, điện ảnh, lịch sử, văn học, hội họa,... để miêu tả con sông Tây Bắc.  Ngòi bút tài hoa và biến hóa của Nguyễn Tuân đã thổi linh hồn cho dòng sông với hai vẻ đẹp: hung bạo và trữ tình trái ngược hợp bên nhau tạo nên toàn cảnh Sông Đà. Với hình ảnh Sông Đà đã khẳng định nét tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trong  lĩnh vực nhìn nhận, khám phá, miêu tả thiên nhiên.
Kết bài
        Tóm lại, bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh con sông Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

ĐỀ 2
Đề bài
Phân tích hình tượng người lái đò Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.

              Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút và để lại cho đời nhiều tập tùy bút đặc sắc. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông phải kể đến tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc  trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng con Sông Đà “hung bạo, trữ tình”  mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ - một tay lái ra hoa.  Ông lái đò trên con Sông Đà hiện lên trong tầm vóc của một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ.
HCST
          Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960). Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Giới thiệu chung
         Trong khi hướng ngòi bút đến những gì phi thường, Nguyễn Tuân còn đặc biệt chú ý đến hình ảnh của những người lao động, mà ông gọi là “thứ vàng mười, chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”. Khắc họa người lái đò song hành với Sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh: phẩm chất dũng cảm, kiên cường của nhân vật khi đương đầu với khó khăn, thử thách. Trên con sông hung tợn đó hình ảnh người lái đò hiên ngang, vững chãi, tự do và đẹp như một huyền thoại.
Lai lịch và ngoại hình

         Quê người lái đò ở ngã tư sông sát tỉnh Lai Châu. Gắn bó với sông từ thuở ấu thơ, ông ngược xuôi thác nước hơn mươi năm trời và cũng đã thôi nghề hơn chục năm. Dáng ông gọn quánh như chất sừng, chất mun, tay lêu nghêu, chân khuỳnh khùynh như đang kẹp chặt cái cuống lái, giọng  nói vẫn ào ào như sóng nước. Mắt ông lúc nào cũng vòi vọi  như mong đợi một cái bến xa nào đó trong  sương mù”. Ngoại hình này rất phù hợp với hoàn cảnh và nghề nghiệp của ông lão lái đò. Phép so sánh này thể hiện tình cảm trân trọng của Nguyễn Tuân đối với người lao động - điều mà trước Cách mạng ông chưa bao giờ nghĩ đến.
Phẩm chất- tính cách
Thạo nghề

Nếu ai đó ví Sông Đà như khúc anh hùng ca bất tử thì ông lái đò Lai Châu thuộc bản trường ca đó đến “từng dấu câu, con chữ, cả những chỗ xuống dòng, ông nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở”. Đương đầu với dòng nước ngược thành một thú chơi thanh cao. Ham giao chiến với đá ngầm, sóng dữ, ông nghĩ: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại tay, dại chân và buồn ngủ... Hết ghềnh, hết thác, Sông Đà hết cả đậm đà ...”. Từ ông đò, Nguyễn Tuân nêu bài học, muốn chiến thắng, con người phải nắm vững quy luật. Ông lão lái đò đã ngang dọc trên dòng sông, đã đưa con thuyền vượt bao cửa tử để đến với cửa sinh, xuôi dòng bình yên.
Anh hùng - nghệ sĩ, tay lái cao cường ra hoa trong bản trường ca vượt thác.

           Mười năm đi đò dọc, ông lái như một vị tướng đầy tài năng sẵn sàng xung trận. Qua bút pháp tương phản, Nguyễn Tuân thể hiện cuộc giao tranh quyết liệt giữa ông lái đò (tiêu biểu cho ý chí, nghị lực con người) và thạch trận sông Đà (thiên nhiên hung bạo). Sông huy động một lực lượng đông đảo, hung hãn có tướng, có quân, với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Chúng phân công nhau, giăng sẵn trận đồ bát quái, bố trí  trận địa thành ba lớp. Tuy vậy, ông đò vẫn bình tĩnh chiến đấu.
Ở trùng vi thứ nhất, vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo võ khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi. Trên con thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.
Sang trùng vi thứ  hai, không một phút ngừng tay nghỉ mắt, ông đò thay đổi chiến thuật. Rất nham hiểm, xảo quyệt, Sông Đà tăng thêm cửa tử, bố trí cửa sinh lệch sang bên phải để đánh lừa ông lái. Như thú dữ, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh. Bọn thủy quân xô ra định kéo thuyền vào tập đoàn cửa tử. Với khí thế cưỡi đến cùng như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ông đò  ghì cương bám chắc lấy luồng nước đúng, phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo. Hành động của ông lão thành thạo, chính xác, dũng mãnh trong từng động tác, đúng là tay lái ra hoa, điêu luyện của người nghệ sĩ. Bằng trí dũng, nghị lực kiên cường, người lái đò đã đánh bại dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh.
Trùng vây thứ ba ít cửa hơn, nhưng bên phải bên trái đều là cửa tử. Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Như một lão tướng, dày dạn kinh nghiệm, dũng cảm, nhanh gọn, dứt khoát, ông đò bình tĩnh tiến vào trận địa, rồi bất ngờ phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa. Con thuyền như một mũi tên lao vút xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa lái được, lượn được qua cổng đá cánh mở cánh khép. Thế là qua luồng chết, thế là hết cửa tử, ra đến cửa sinh,... dòng sông vặn mình vào một bến cát có hang lạnh. Ông đò uy nghi rạng rỡ trở về từ cõi chết. Ông đã chiến thắng thiên nhiên làm chủ cuộc đời. Cuối cùng thiên nhiên phải khuất phục dưới sự tài ba và lòng dũng cảm tuyệt vời của con người.
Bình dị khiêm tốn
Vượt thác thì tung hoành như vậy nhưng đêm về lại bình dị biết bao. Tối hôm đó, nhà đò đốt lửa trong hang, nướng ống cơm lam, bàn chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh... Không ai nói đến chiến thắng oai hùng trên thác nước. Vì sao thế ? Vì với họ, đó là chuyện hàng ngày...


Nghệ thuật

        Nhịp văn gấp gáp, căng thẳng, dồn dập phù hợp với không khí giao tranh quyết liệtSử dụng bút pháp tương phản, Nguyễn Tuân khắc họa được sự đối kháng giữa hai lực lượng: một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà hung bạo, dữ dội, một bên là con người – ông lái đò  thồng minh dũng cảm, kiên cường. Sự tương phản trên đây khẳng định khả năng chinh phục tự nhiên của con người Tây Bắc. Sử dụng đúng chỗ kiến thức uyên bác trong nhiều  lĩnh vực khoa học, nghệ thuật…cùng trí tưởng tượng kì thú và kho chữ nghĩa phong phú, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca về người lao động anh hùng – nghệ sĩ. Người lái đò Lai Châu còn là sự hóa thân, thăng hoa của Nguyễn Tuân.
         Qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân muốn khẳng định người anh  hùng đâu chỉ xuất hiện ở nơi duy nhất là chiến trường, mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta. Cũng như sự tài hoa trí dũng cũng không cần phải tìm ở đâu, mà ngay trong những con người lao động bình thường, vô danh đang có mặt trên mọi miền đất nước. Như vậy trong việc nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, anh hùng, Nguyễn Tuân đã có cách nhìn mang tính nhân dân cao hơn so với những trang viết của ông trước CMT8.
Kết luận
      Tóm lại, đọc "Người lái đò Sông Đà" suy ngẫm về nhân vật ông đò chúng ta nhớ tới Huấn Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm "Chữ người tử tù" một sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng một quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống      


BÚT KÍ “AI ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG.
Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Với sở trường về bút ký và  đặc sắc trong sáng tác là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vẻ đẹp đa dạng về con sông Hương.
- Bút kí “Ai đặt tên cho dòng sông?” là một trong những bài tùy bút đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, được viết ở Huế vào dịp tiết Cốc Vũ ngày 4.1.1981. Sau được in trong tập bút kí cùng tên (1986). Bài bút kí ca ngợi vẻ đẹp huyền ảo thơ mộng của sông Hương, gắn với bao địa danh và tâm hồn con người nơi cố đô Huế. Đến kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường con sông Hương đã trở thành một người con gái đẹp có tâm hồn, có cá tính dịu dàng và một vẻ đẹp sang trọng đằm thắm, một vẻ đẹp đầy văn hoá
Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên: Khác với nhiều con sông “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”, nghĩa là sông Hương gắn liền với Huế. Điểm nhìn nghệ thuật của bài kí là sông Hương.  Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này sông Hương mang tính lưỡng thể: Hùng vĩ với sức sống mãnh liệt, hoang dạimột bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng dữ dội “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, bằng biện pháp nghệ thuật nhân hoá “giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như như một cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại”. Tác giả kết luận “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Dịu dàng và say đắmgiữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Ra khỏi rừng, sông thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Tất cả đều nói lên chất nữ tính vừa dịu dàng, e lệ vừa mãnh liệt, hoang sơ. Ở đoạn này, nhà văn chú ý khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà ngay cả dòng sông cũng không muốn bộc lộ. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng.
Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế khăng khít với Huế như một người tình. Hành trình sông về với Huế được ví như “cuộc tìm kiếm người tình trong mộng”. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, xứ Huế là “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” chờ sông Hương đến đánh thức. Hình ảnh này gợi nhớ câu truyện cổ “Công chúa ngủ trong rừng”. Trước khi gặp Huế, từ ngã ba Tuần đến đồi Thiên Mụ, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn. Ra khỏi vùng núi, sông chuyển dòng liên tục. Với tư cách chuyên gia địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường xem xét hướng chảy của sông, rồi mô tả nó bằng ngôn ngữ huyền diệu của nhà tùy bút. Khi thì “sông uốn mình theo những đường cong thật mềm”, lúc lại chủ động “vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc...”. Lúc chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai,... sông Hương “mềm như tấm lụa”. Đến với những dãy đồi phía tây nam, sông ánh lên “sắc màu kì ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Qua lăng tẩm các vua triều Nguyễn, sông bộc lộ “vẻ đẹp trầm mặc” “như triết lí, như cổ thi”. Đó là những phép so sánh độc đáo. Không miêu tả trực tiếp con sông, tác giả mở rộng tầm nhìn sang hai bên bờ: “giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của các vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch...”. Hoàng Phủ Ngọc Tường con trích dẫn cả thơ cố để khắc họa vẻ kiêu hãnh, âm u của khu lăng tẩm đồ sộ:
“Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”.
Miêu  tả mặt nước phẳng lặng và đôi  bờ u tịnh, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp thâm nghiêm, ngàn năm không thay đổi của dòng sông. Ẩn sau các con chữ là “cái tôi” nghệ thuật rất riêng của HPNT
            - Vẻ đẹp của Sông Hương khi chảy vào thành phố: Giữa bờ bãi xanh biếc ở ngoại ô Kim Long sông vui tươi hẳn lên như tâm trạng nao nức, bồi hồi của người đi xa “tìm đúng đường về”. Giáp mặt thành phố, uốn một cánh cung rất nhẹ, dòng sông mềm mại như “một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đây là một phép so sánh lạ không thể gặp lại lần thứ hai. Tác giả đã dùng tiếng “vâng” e ấp, ngập ngừng, ý vị, kín đáo, thiêng liêng trên đôi môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại, uyển chuyển của sông Hương. Tiếp đó, tác giả đã có nhiều liên tưởng, so sánh, suy tư rất độc đáo để miêu tả dòng sông.
Cũng như Nguyễn Trãi đặt các triều đại Việt Nam  ngang hàng cùng các vương triều Trung Hoa, Chủ tịch Hồ Chí Minh so sánh Tổng khởi nghĩa tháng Tám với hai cuộc cách mạng ở Mĩ và Pháp, khi miêu tả sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng đến sông Xen (Paris), sông Đa-nuýp (Bu-đa-pét), sông Nê va (Pê-téc- pua) - những biểu tượng văn hóa của ba quốc gia lớn ở Châu Âu. Từ đó, ta thấy lòng tự hào về sông Hương và Huế của tác giả. So sánh với dòng sông của các thành phố khác, nhà văn khắc họa được vẻ đẹp riêng của sông Hương. Giống như sông Xen, sông Đa-nuyp..., sông Hương cũng chảy giữa lòng thành phố nhưng cho đến nay, Huế vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ. Đối chiếu với sông Nê-va,  tác giả nhấn mạnh điệu chảy lững lờ mà sông Hương dành riêng cho Huế. Điều  này có thể cảm nhận bằng mắt qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh, ngập ngừng như nuốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặtt nước sông Hương đêm Lễ Vu Lan.
- Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành: Rời khỏi kinh thành, như sực nhớ điều gì chưa kịp nói, sông đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối. Đó là điều rất lạ với tự nhiên và rất giống với tính cách con người nơi đây - nỗi vương vấn, chút lẳng lơ, tình tứ, kín đáo của tình yêu. Tác giả  so sánh mối quan hệ giữa sông Hương - kinh thành Huế  với mối tình Thúy Kiều - Kim Trọng. Giống như nàng Kiều, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó để nói một lời thề. Lời thề ấy còn vang vọng mãi qua giọng hò dân gian: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Qua các chi tiết nghệ thuật trên, tác giả làm nổi bật tấm chung tình của sso6ng Hương với người dân xứ Huế.
 Vẻ đẹp sông Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa. Tác giả khẳng định có một dòng thi ca riêng về sông Hương: Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu... đều có thơ về sông Hương. Đó là dòng sông không lặp lại mình: “Dòng sông trắng- lá cây xanh” (Chơi xuân - Tản Đà), “Như kiếm dựng trời xanh”( Trường giang như kiếm lập thanh thiên - Cao Bá Quát), “Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”(Thơ của Thu Bồn)
Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước”, sông Hương thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Sông là cội nguồn làm nên vẻ đẹp âm nhạc cổ điển Huế, vẻ đẹp của Truyện Kiều. Về mặt văn hóa, sông Hương có thể sánh cùng sông Nile, sông Hằng, sông Hoàng Hà – cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới.  Cũng như Đà giang, sông Hương chảy qua nhiều địa danh - nhưng mỗi địa danh ở đây đều gắn với một di tích văn hóa. Theo không gian xuôi về biển, vẻ đẹp sông Hương được khám phá ở nhiều góc nhìn khác nhau. Trong đó có góc nhìn văn hóa.
         3. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử. Tác giả đã điểm qua dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: Thế kỉ XV, s/Hương còn là nơi biên thùy xa xôi chiến đấu oanh liệt bảo vệ phía nam Tổ quốc. Thế kỉ XVIII, dòng sông soi bóng kinh thành Huế và người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ XIX  là thời kì bi tráng của sông Hương thấm đẫm máu của bao cuộc khởi nghĩa. Thời đại CMT8, sông Hương với nhiều chiến công rung chuyển đất trời (Xuân Mậu Thân).
Sông Hương là dòng sông của thời gian - sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi của non sông, nó biết tự hiến mình làm nên những chiến công và khi về với đời thường, nó lại dịu dàng như cô Tấm. Nếu ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận theo không gian địa lí thì ở đây, nó hiện lên qua chiều sâu lịch sử, gắn liền với chiến công và hi sinh thầm lặng. Sông thành tấm gương phản chiếu lịch sử,  gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc.
Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê hương xứ sở vào sông Hương khiến đối tượng trở nên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con người. Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng với sự uyên bác về các phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên áng văn đặc sắc này. Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ần dụ, nhân hóa. Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.

   Qua cách nhìn rất độc đáo ấy, tác giả cho thấy nét tài hoa của một ngòi bút ở thể bút kí; nét độc đáo trong ý tưởng phát hiện về phẩm chất của một dòng sông và hệ thống hình ảnh giàu sức gợi, tác giả đã tạo nên những xúc cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.