Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

Lý thuyết văn 12 - D

B .MỘT SỐ ĐỀ VĂN THAM KHẢO

BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH
Đề bài
        Có người nói: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục”.
Mở bài
            Vào  thời điểm chuyển mình của lịch sử dân tộc thường xuất hiện những ánh văn bất hủ, đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc VN ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử.
HCST
               Ngày 19/ 8/ 1945 chính quyền thủ đô về tay nhân dân. Ngày 26. 8 Chủ Tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới HN. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản TNĐL. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - HN trong hoàn cảnh: thù trong giặc ngoài, vận mệnh Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc (bọn đế quốc, thực dân đang rắp tâm cướp nước ta lần nữa), Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước VNDCCH đọc bản TNĐL, trước 50 vạn đồng bào.
Giá trị lịch sử v. bản
              Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả cao của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam
Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Nhưng ta sẽ không hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu không trở lại với không khí chính trị căng thẳng, nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ. Cho đến đầu mùa thu năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển thật mau lẹ. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi vào những ngày cuối. Sự cáo chung của phe Phát xít và sự thắng trận của quân Đồng minh sẽ là kết cục không thể đảo ngược. Chớp lấy thời cơ đó, nhân dân ta, dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Việt Minh đã vùng lên cướp lấy chính quyền. Chỉ trong vòng một tuần lễ “Sao vàng năm cánh” không còn là “mộng” nữa mà đã tung bay trên khắp ba miền. Nhưng cũng chính lúc này, nhiều đế quốc bắt đầu nhòm ngó Đông Dương và không dấu ý đồ thôn tính nước ta. Không thể chần chừ, Việt Nam cần phải tuyên bố độc lập!
               Bản Tuyên ngôn vì thế đã đóng vai trò hoàn tất một sứ mệnh lịch sử. Không còn nghi ngờ gi nữa, sự ra đời đúng lúc của bản Tuyên ngôn Độc lập đã chặn đứng âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, chống lại ý đồ can thiệp vào Việt Nam của đế quốc Mĩ, mở đầu cho làn sóng giải phóng thuộc địa ở Châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao giá trị của dân tộc ta trên trường quốc tế. Bản Tuyên ngôn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của Thực dân Pháp, 5 năm cướp bóc, giày xéo của Phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Với ý nghĩa như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập đã thật sự khai sinh ra một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Giá trị v/học









































      Toàn văn bản không dài chỉ gói gọn trong khoảng một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tuyên ngôn chia 3 phần rõ rệt. Lời tuyên bố độc lập dựa trên những cơ s pháp lí và thực tế lịch sử. Bên cạnh những giá trị lịch sử to lớn đã nói trên, bản Tuyên ngôn còn là một bài văn chính  luận tiêu biểu xuất sắc. Nó được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước ngoặc vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do, độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn luôn bị sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng hùng văn được kết tinh bởi trí tuệ và tâm huyết Hồ Chí Minh – Người con ưu tú của dân tộc – và bởi tự thân tác phẩm – tiếng nói chân lí của thời đại. Mọi chân lí đều hết sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại có bố cục ngắn gọn, súc tích như vậy. Trước hết , là một thông điệp chính trị, bản Tuyên ngôn hướng tới những mục đích nhất thời, quan trọng có tính cấp thiết, bức bách, nước sôi, lửa bỏng. Trong một tình thế như vậy, sự ngắn gọn, mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thông tin nhanh chóng và triệt để. Tất nhiên, không phải sự ngắn gọn nào cũng tạo nên tính chất súc tích, cô đọng và không phải sự cô đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh. Bản tuyên ngôn dường như chỉ xoáy sâu vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hoàn toàn quyền dính líu tới Việt Nam của thực dân Pháp. Thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập đó. Vì những mục tiêu này, các ý tưởng, các kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn, sáng sủa.
Như đã nói ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ đọc trước quốc dân, đồng bào mà còn trước thế giới. Đây còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù. Cho nên, phần đầu của bản
tuyên ngôn là cơ sở pháp lý vững chắc để đi đến khẳng định nguyên lí chung rằng: tất cả mọi  người, mọi dân tộc đều có quyền được sống bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu h.phúc. Cụ thể Bác đã trích dẫn lại hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776) “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyến ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) đã nêu: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyến lợi, và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng được cả thế giới công nhận, là chân lý muôn đời của thời đại, được đúc kết từ thực tiễn máu xương của hai cuộc CMTS. Tuy nhiên, Người đã vận dụng chân lí đó một cách linh hoạt, đầy sáng tạo, kết hợp ý kiến của người với ý kiến của mình: “suy rộng ra” thành quyền bình đẳng, tự do của các dân tộc. Bác nhanh chóng tiến từ quyền con người sang quyền dân tộc. Đó là đóng góp to lớn về mặt tư tưởng của Bác. Từ đó nhằm nhấn mạnh giá trị hiển nhiên của độc lập, tự do các dân tộc.
            Thực chất đây là sách lược mềm dẻo, tỏ ra khiêm tốn, tôn cao những giá trị bất hủ của Pháp và Mỹ. Nhưng thật ra, Bác muốn rung hồi chuông cảnh báo, nếu thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược VN nghĩa là chúng đã đi ngược lại lời của cha ông chúng, là những kẻ thất ước. Như vậy cùng một lúc Bác đã bắn một mũi tên trúng nhiều đích. Cái độc đáo và khéo léo của Bác là đã dùng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”, “dùng lời của kẻ thù để khóa miệng kẻ thù” để ràng buộc các nước Đồng minh. Kết thúc phần một là một lời chốt ngắn gọn đầy sức thuyết phục: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được nhằm khẳng định chắc chắn về quyền con người và quyền dân tộc. Bác quả là có con mắt sáng nhìn xa trông rộng (Nhìn bốn hướng – Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau – Trông Bắc, trông Nam trông cả địa cầu). Tóm lại, bằng phương pháp suy lý diễn dịch, lập luận chặt chẽ, súc tích, ngắn gọn, sáng tạo, đoạn mở đầu đã tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ.
Để tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế cùng hàng loạt sự phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muốn chối cãi, chúng cũng không thể. Để tránh những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con đen” mà thực dân Pháp đã cố dựa vào như một nguỵ thuyết để rắp tâm quay trở lại thống trị nước ta, một lần nữa, tác giả đã vạch rõ: “Mùa thu năm 1940, Phát xít nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật” (…) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta  đã thành thuộc  địa của Nhật, chứ không phải của Pháp nữa. (…) Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, vì sự thấu hiểu tình hình chính trị một cách sâu sắc, bằng những chứng cứ đầy đủ và xác thực, bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo trạng đanh thép lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp.
Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục của bản Tuyên ngôn còn là ở sự chính xác và giàu sức biểu cảm của hệ thống ngôn từ. Chẳng hạn, sau khi viện dẫn hai bản tuyên ngôn, nhưng không dừng lại ở nội dung hai bản Tuyên ngôn đó mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những bể máu…”, “Chúng ràng buộc (…) chúng bóc lột (…) chúng cướp (…) chúng giữ độc quyền (…) chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị …”. Khi tuyên bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, bản Tuyên ngôn có những từ vừa chính xác vừa chọn lọc: “Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ không phải với) nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Ngoài ra, việc sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc khẳng định các ý tưởng, vừa bảo đảm độ chính xác và sức mạnh cho lí lẽ vừa gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm, thôi thúc người nghe nhận ra và thừa nhận chân lí.
Kết bài
Tất cả những điều đó đã khẳng định trình độ nghệ thuật xuất sắc của tác giả, đưa Tuyên ngôn Độc lập trở thành một mẫu mực của thể văn chính luận. Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn đồng thời là một tác phẩm chính luận xuất sắc, mẫu mực. Tuyên ngôn Độc lập – mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do, tạo điều kiện cho mọi thay đổi căn bản của đời sống dân tộc, trong đó có văn học

BÀI VIỆT BẮC – TỐ HỮU
ĐỀ 1
Đề bài
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
                                              Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
                                                Tiếng ai tha thiết bên cồn
                                               Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
                                               Áo chàm đưa buổi phân li
                                              Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Mở bài
            Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển hình nhất là tám dòng thơ đầu trong bài thơ “VB”:
                                        “ dẫn chứng thơ 8 dòng đầu
HCST
           Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).
GT
đại ý
        Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
P/tích bốn dòng đầu
           Mở đầu bài thơ là những câu hỏi của người ở lại (Việt Bắc) với người ra đi (cán bộ kháng chiến) trong buổi chia tay thật bồi hồi tha thiết:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
            Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng cùng với cách đối đáp mình – ta” thân mật tình cảm tràn đầy thương nhớ. Ta từng bắt gặp điều này trong ca dao: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm dải áo, ta đề câu thơ” hay “Mình về có nhớ ta chăng - Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
            Đặc biệt những từ “mình có nhớ ta”, “thiết tha mặn nồng” đúng là giọng điệu của những người đang yêu nhau giờ trong phút chia tay giã biệt. Thật ra đây không phải là tình yêu nam nữ mà là tình quê hương đất nước, tình quân dân thắm thiết. Trong đoạn thơ trên có hai câu hỏi: một câu hướng đến thời gian“15 năm” (chỉ độ dài được tính từ cuộc  khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, thời gian nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ: Việt Bắc với cách mạng). Câu thơ mang âm hưởng Truyện KiềuNhững là rày ước mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”; Câu hỏi còn lại hướng đến không gian “núi sông” nhìn cây nhớ núi – nhớ Việt Bắc; nhìn sông nhớ nguồn – nhớ về cội nguồn. Câu thơ chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo, lời nhắc nhở về những tình cảm thiêng liêng: đừng quên cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn cách mạng.
P/tích bốn dòng sau
Câu hỏi của người ở lại vừa vang lên thì gặp sự hô ứng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..
          “Ai” là đại từ phiếm chỉ nhưng cũng rất rõ ràng làm cho lời thơ thêm tình tứ và đầy ý vị. Với cách dùng từ “ai” khiến cho câu thơ mang âm hưởng của ca dao và  gợi  một không gian gần gũi, thân thương:
                                              Tiếng ai tha thiết bên cầu
           Hai từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” được sử dụng chính xác, diễn tả rất đúng không khí và tâm trạng biệt li, tâm trạng bồi hồi xao xuyến, lưu luyến, nhớ thương,… hòa lẫn cùng một lúc trong phút chia tay. Bởi mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau đầy những kỉ niệm, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Hai từ  này được dùng cân xứng trong câu thơ tiểu đối tạo âm điệu dìu dặt, xao xuyến.  
          Cảnh tiễn đưa đầy xúc động qua hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân li”. Tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. “Áo chàm là màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc. Đây là hình ảnh hoán dụ gợi nhớ con người Việt Bắc chân chất, mộc mạc mà nghĩa tình bền chặt.
          Tình cảm lưu luyến ấy còn được biểu đạt bằng cử chỉ rất cảm động: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Nhịp  của câu thơ lục bát này đã có sự xáo trộn (3/3/2) để diễn tả thần tình cái ngập ngừng, bối rối lúc chia tay. Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ: "Bước đi một bước, giây giây lại dừng".  “Cầm tay” gợi tình cảm thắm thiết, yêu thương, không muốn rời xa của người đi, kẻ ở. Ta từng bắt gặp điều này trong bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến “Cầm tay hỏi hết xa gần”, hay  “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…” (Đồng chí - Chính Hữu). Còn “Biết nói gì” không phải là không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói nhưng không biết phải nói điều gì, hoặc vì xúc động nên nói không nên lời, ngôn ngữ dường như đã trở nên bất lực trong hoàn cảnh này. Cái không lời này nhưng thể hiện được nhiều nhất tình cảm dạt dào, dâng trào trong nỗi xúc động. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một nốt lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
Nhận xét chung
       Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi.  Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu  - giọng tâm tình như tiếng nói  “đồng tâm, đồng tình, đồng chí”. Lời thơ là tiếng lòng thiết tha: “ Thơ chỉ tràn ra trong trái tim ta cuộc sống đã thật đầy” (Tố Hữu). Đoạn thơ còn là tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với cuộc đời, với nghĩa tình sâu nặng của nhân dân.
Kết bài
           Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
         Về hình thức, bài thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, bài thơ nói chung và những dòng thơ trên nói riêng vẫn rung cảm lòng người.

ĐỀ 2
Đề bài
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
                                              Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
Mở bài
            Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển hình nhất là mười hai dòng thơ sau trong bài thơ “VB”. Từ dòng thứ chín đến dòng hai mươi.
                                        “ dẫn chứng thơ 12 dòng tiếp
HCST
           Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).
GT
đại ý
        Trong bài thơ, sau những lời ướm hỏi ngọt ngào trong khúc dạo đầu ở đoạn trên, mười hai dòng thơ tiếp theo làm thành sáu câu hỏi tiếp tục là lời của người ở lại gợi nhắc về những kỉ niệm, những ân tình – mỗi câu hỏi gợi một cái gì thật tiêu biểu, thật ấn tượng về Việt Bắc. Bao kỉ niệm của một thời gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, đầy ân tình được thể hiện chân thực qua đoạn thơ gợi nhiều cảm xúc cho người đọc.
P/tích 12 dòng thơ
         Trước hết, đoạn thơ gợi về Việt Bắc với những ngày tháng không thể nào quên của một thời kháng chiến. Nói khác hơn, Việt Bắc nhắc người cán bộ kháng chiến đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, những ngày hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn đơn sơ, thiếu thốn.
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Hình ảnh thơ giàu sức gợi. “Mưa nguồn suối lũ” là chi tiết tả thực về thiên nhiên khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc; “miếng cơm chấm muối” là phản ánh cảnh sinh hoạt kham khổ, khó khăn trong buổi đầu của cuộc kháng chiến. Điều này từng thấy trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Khi Khôi Huyện quân không một đội...”. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng trên vai dân tộc ta.
            Lại có những câu hỏi gợi cảm giác cô đơn lòng người ở lại  khi chia tay:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
            “Rừng núi, trám bùi, măng mai” được nhân hóa cùng với hình ảnh “trám rụng – măng già” không ai thu hái gợi nhiều bơ vơ, man mác buồn thương. Tác giả mượn cái thừa để nói cái thiếu vắng nhằm biểu đạt kín đáo, sâu sắc cái tình của Việt Bắc với cách mạng, với cán bộ về xuôi  làm cho nỗi nhớ như thắt vào lòng kẻ ở lại.
             Vẫn tiếp tục là những câu hỏi tu từ gợi nhớ:
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
               Tố Hữu sử dụng hình ảnh tượng trưng, tương phản “lau xám/ lòng son” để ngợi ca đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó thiếu thốn nhưng vẫn son sắt thủy chung với CM, vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ: xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.
P/tích 2 dòng cuối
          Sau cùng, đoạn thơ còn gợi nhớ về Việt Bắc – chiếc nôi của cách mạng, quê hương cách mạng.
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
            Những từ chỉ thời gian: khi… thuở … những địa danh, hình ảnh đã thành lịch sử gợi cảm xúc thiêng liêng: Tân Trào, Hồng Thái – mái đình, cây đa… giờ trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng người đi kẻ ở. Đằng sau đó có lời nhắn nhủ về nghĩa tình thủy chung, đề cao tình cảm thủy chung, hướng về cội nguồn:
                       “Mười lăm năm ấy ai quên/ Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”.
Nhận xét chung
      Có thể coi đoạn thơ trên là nỗi thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc. Đoạn thơ là bằng chứng khẳng định sức mạnh của thơ trữ tình chính trị qua tài thơ Tố Hữu. Nó có tác dụng: khơi gợi tình cảm cội nguồn – nghĩa tình thủy chung.
        Về nghệ thuật, nổi bật trong đoạn thơ là khúc hát ân tình thiết tha, xúc động của người Việt Bắc dành cho người cán bộ kháng chiến sắp lúc về xuôi. Điệp khúc: Mình đi, có nhớ… Mình về có nhớ… là những câu hỏi tu từ là tiếng lòng tha thiết cất lên không chỉ là nhắn nhủ mà còn là hoài niệm, gợi nhớ. Giọng điệu tha thiết, ngọt ngào/ tiêu biểu cho giọng điệu thơ Tố Hữu những tình cảm cách mạng được cất lên thật trữ tình, dễ đi vào lòng người.   
Kết bài
        Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
           Về hình thức, bài thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng vẫn rung cảm lòng người. 

ĐỀ 3
Đề bài
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
          Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
       Nhớ từng bản khói cùng sương
                                              Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
                                             Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
                                                     Ta đi ta nhớ những ngày
                                              Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
  Thương nhau chia củ sắn lùi
                                                 Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Mở bài
            Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ thể hiện sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến” với bao lưu luyến nhớ thương. Nỗi nhớ ấy được cất lên thật cảm động:
                                        “ dẫn chứng thơ 12 dòng thơ
HCST
           Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).
GT
chung
         Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ niệm. Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc toàn bài, nỗi nhớ trào dâng được thể hiện sâu sắc và cảm động về tình cảm của người cán bộ kháng chiến đối với đất và người Việt Bắc. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, c/sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.
PT sáu dòng đầu
      Trước hết là nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
                                             Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Hình ảnh diễn đạt trữ tình, ý nhị, sâu sắc “như nhớ người yêu” thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Với cách so sánh mới lạ sáng tạo này đã cho người đọc thấy hết được tình cảm của người ra đi, nhớ Việt Bắc như nỗi nhớ trong tình yêu: thường trực, sâu sắc, mãnh liệt.
             Nỗi nhớ được thể hiện ở nhiều tầng bậc, hiện hữu cùng bước đi thời gian:  trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya, trải ra với các không gian: bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê… gợi những nét nhớ nhung tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt. Chữ “nhớ từng” là cách điểm lại một cách tỉ mỉ, không bỏ sót chi tiết nào, hình ảnh nào… Bức tranh Việt Bắc hiện ra qua hoài niệm khi thì mơ màng, vời vợi khi lại rõ nét với đường nét, màu sắc, ánh sáng. Mỗi cảnh là một nét nhớ, nét thương về con người Việt Bắc. 
P/tích 6 dòng thơ cuối
Chưa hết, nỗi nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa tiếp tục được tái hiện:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
           Đại từ “mình-ta” đan xen kết hợp với từ chỉ vị trí “đây - đó” nhằm thể hiện sự gắn bó, kề vai sát cánh bên nhau… cùng với thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” đã khái quát những gian khổ, vất vả để nhấn mạnh sự đồng cam cộng khổ. Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng người Việt Bắc hết sức tình nghĩa chan hòa. Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
Nhận xét
        Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa nghĩa tình. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ gìnhớ từngnhớ sao…nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… Chuyện nghĩa tình cách mạng, chuyện kháng chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình yêu. Đọan thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình-chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc.
Kết bài
           Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
           Về hình thức, bài thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, bài thơ vẫn rung cảm lòng người.

ĐỀ 4
Đề bài
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:  
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
                                               Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
                                                Rừng thu trăng rọi hòa bình
                                                Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mở bài
            Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa trong năm:
                                        “ viết lại 10 dòng thơ
HCST
           Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).
GT
chung
         Trong nền thơ ca và văn học VN, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít như khung cảnh "Trông bốn bề" của "Chinh phụ ngâm" (Đoàn Thị Điểm), đoạn " Buồn trông" trong "Kiều ở Lầu Ngưng Bích" (Nguyễn Du), hay trong Truyện Kiều cũng có câu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”, hoặc  ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ trong "Nhớ rừng" (Thế Lữ). Thế nhưng, trong VB, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông - Xuân - Hạ - Thu... Đoạn thơ gồm mười dòng lục bát đã ghi lại cảnh và người ở Việt Bắc. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét: “Những câu thơ viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể so sánh với bất kì đoạn thơ nào viết về thiên nhiên trong văn học cổ điển”.
Hai dòng đầu
          Mở đầu đoạn thơ là câu lục bát giới thiệu, mang cảm xúc chung cho toàn đoạn:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
         Ta là người ra đi và mình là người ở lại. Và câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” là cái cớ để bày tỏ tấm lòng của người ra về. Người ra về lòng vẫn nhớ, nhớ “hoa và người”.  “Hoa ” là thiên nhiên đẹp tươi sáng và “người” là con người Việt Bắc. Thiên nhiên hòa điệu với con người, trở thành hai bộ phận không thể tách rời nhau.  Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp.
Cảnh mùa đông
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại  là bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây. Nhà thơ dùng dòng lục để miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên thiên với những nét đẹp riêng biệt; Còn dòng bát dùng cho thể hiện hình ảnh con người Việt Bắc. Chỉ riêng đoạn thơ này, ta thấy  thấm đậm tính dân gian.
Đầu tiên là bức tả cảnh, khơi gợi tình cảm yêu mến về mùa đông Việt Bắc :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
 Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo chân cầu sông Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc cũng vào mùa đông. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn còn chứng minh bởi một khúc hát quen thuộc của Lưu Trong Lưu trong bài  “Một mùa đông”:
                        “Đôi mắt em lặng buồn
                         Nhìn tôi mà không nói
                        Tình đôi ta vời vợi
                        Có nói cũng vô cùng
                       Trời hết một mùa đông
                        Không một lần đã nói…”.
             Bức tranh mùa đông Việt Bắc được miêu tả bằng màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Giữa màu xanh biếc đó là màu đỏ rực của hoa chuối như những bó đuốc thắp lên sáng rực và cả màu vàng của nắng. Chính vì thế, mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo mà có phần ấm áp, tuôn trào sức sống. Điều này còn được biểu hiện qua hình ảnh con người lên núi lao động Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.  . Đồng bào VB lúc đi rừng, làm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt lưng. Trên tầm cao của núi đèo, ánh nắng mặt trời chiếu vào những con dao ấy tạo nên sự phản quang rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một câu thơ thôi nhưng ta có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ hào hùng của con người lao động làm chủ thiên nhiên. 
Cảnh mùa xuân






















Cảnh mùa hè


Tiếp theo dòng hồi nhớ là bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc :
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo sự  vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi là màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Màu trắng của hoa mơ gợi cái thanh thoát, đem lại cho lòng người sự nhẹ nhàng, êm dịu. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
" Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về ... Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
            Trong Truyện Kiều, ta cũng bắt gặp hình ảnh tương tự:
                                                "Cỏ non xanh tận chân trời
                                    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Mùa xuân được miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân của Việt Bắc. Và gắn với khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh người lao động rất đẹp :
 “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Chữ “chuốt” là trau chuốt, làm bóng lên, đẹp lên. Chữ “từng” đã gợi tả được đức tính cần mẫn, tỉ mĩ và chịu khó. Có khéo tay mới chuốt từng sợi giang mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, vật phẩm đặc trưng của người VB. Con người cần cù, tài hoa ấy thật đáng yêu, đáng nhớ.
        Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, nhường chỗ cho mùa hè đến :
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc cả thị giác lẫn thính giác. Mùa hè được cảm nhận bằng âm thanh quen thuộc “ve kêu” và bằng hình ảnh rất riêng của núi rừng Việt Bắc "rừng phách đổ vàng". Phách  là một loại cây thân gỗ, nở hoa vàng vào đầu mùa hè. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì có thêm bóng dáng của một cô sơn nữ  “hái măng một mình”. Đọc tới đây, ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong bài thơ “Cô hái mơ” của nhà thơ đồng quê Nguyễn Bính:
 “Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
 Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
 Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”.
Từ “hái” phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái VB. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ giờ lại khắc thêm vào hình ảnh người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi lạc quan làm việc lại càng có hồn, có sức sống. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
Cảnh mùa
thu
       Kết thúc đoạn thơ là cảnh rừng đêm trăng thu huyền diệu và thơ mộng:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
          Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu. Nguyễn Khuyến khi miêu tả cảnh thu cũng không quên miêu tả ánh trăng mùa thu: “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… Hồ Chí Minh cũng thế: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Tuy nhiên, ánh trăng ở đây không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn gắn với niềm xúc động của những con người từng trải qua bao năm tháng khốc liệt, gian khổ của chiến tranh. Trong khu rừng thấm đẫm ánh trăng vàng, bỗng ngân nga lên tiếng hát ân tình làm rạo rực lòng người. Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc, cũng chính là tấm lòng của người về xuôi với chiến khu. Thế nên ánh trăng dường như cũng ngời sáng hơn và tiếng hát cũng du dương và vang xa hơn.
Nhận xét
       Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Trong nỗi nhớ của người ra đi kỉ niệm về VB thật sâu đậm, đáng yêu và đáng nhớ. Qua nỗi nhớ, niềm trân trọng tha thiết của nhà thơ, cảnh và người VB hiện lên thật gần gũi, chân thực mà thơ mộng, trữ tình. Thông qua tình cảm riêng của mình, Tố Hữu đã nói lên tình cảm của cả một thế hệ với quê hương đất nước, đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung ân tình của nhân dân ta. Đoạn thơ ngắn 10 dòng trên mang âm điệu ngọt ngào, từ ngữ trong sáng giản dị giàu sức gợi, in đậm phong cách thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với Việt Bắc.         
Kết bài
        Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
           Về hình thức, bài thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng vẫn rung cảm lòng người.

ĐỀ 5
Đề bài
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
  Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
            Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mỏ rừng chiều
                                            Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.
Mở bài
            Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ ngợi ca những tình cảm giản dị, nghĩa tình thủy chung sâu sắc của con người trong những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ thể hiện qua đoạn thơ sau:
                                        “ dẫn chứng thơ 12 dòng thơ
HCST
           Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).
GT
chung
         Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ niệm. Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc toàn bài, nỗi nhớ trào dâng trong lòng người ra đi được thể hiện sâu sắc và cảm động giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, c/sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.
Hai hai dòng đầu
       Hai câu đầu là hình ảnh chân thực về đời sống kháng chiến gian nan, cực khổ:
                                                Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
            Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
P/tích 2 dòng thơ tiếp
         Hai câu tiếp theo là  hình ảnh người mẹ, kết tinh hình ảnh con người và cuộc sống kháng chiến:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
         Hình ảnh chọn lọc: “Người mẹ nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang cán bộ cách mạng. Đó còn là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi. Hình ảnh mẹ VB rất giống như hình ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”:
                           “Mẹ thương akay, mẹ thương bộ đội” (Nguyễn Khoa Điềm).

Nhớ về VB là nhớ về cuộc sống, sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên:
                                      Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
          Điệp từ “nhớ” điệp trùng thể hiện nỗi nhớ dạt dào. Cùng hàng loạt những hình ảnh, âm thanh thân quen: tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, tiếng suối xa, tiếng học i-tờ, ca vang núi đèo, đồng khuya đuốc sáng… âm thanh thiên nhiên gợi hồn núi rừng Việt Bắc - âm thanh cuộc sống bình dị, ấm áp mà vui tươi. Đoạn thơ đối ý, nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn :
"Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"
 VB tràn đầy nỗi nhớ của người kh/chiến về xuôi với quê hương CM trong 15 năm “thiết tha mặn nồng” tình nghĩa. Bao nhiêu chữ “nhớ” vang lên trong bài thơ là bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi với người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ núi rừng, nhớ mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, nhớ người mẹ, nhớ lớp học, nhớ những ngày gian khổ có nhau,… Sau đoạn này là nhớ cảnh và người VB, nhớ những đêm quân đi điệp điệp trùng trùng,… tất cả đều tha thiết và sâu lắng. 
Nhận xét
        Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa nghĩa tình. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ gìnhớ từngnhớ sao…nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… Chuyện nghĩa tình cách mạng, chuyện kháng chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình yêu. Đọan thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình - chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc.
Kết bài
          Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
           Về hình thức, bài thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, bài thơ vẫn rung cảm lòng người.

ĐỀ 6
Đề bài
Phân tích bức tranh Việt Bắc ra trận của Tố Hữu: “Những đường Việt Bắc của ta.......Vui lên VB đèo De, núi Hồng”
Mở bài
            Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Nổi bật nhất là đoạn thơ hồi ức về bức tranh Việt Bắc ra trận:
                                        “Những đường Việt Bắc của ta
                …………………………..
                                                Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
HCST
           Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hòa bình được lập lại, đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).
GT
chung
         VB của Tố Hữu không chỉ là khúc ca ân tình, mà còn là bản tổng kết bằng thơ mười lăm năm CM. Bên cạnh những đoạn thơ trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những khúc ca tràn đầy khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân dân ta mà tiêu biểu là bức tranh VB ra trận.  Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, chỉ vài nét phác hoạ khung cảnh hùng tráng, Tố Hữu đã cho thấy hào khí ngất trời của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do. Họ vừa mới xuất quân mà như đã cầm chắc chiến thắng trong tay.
Hai dòng đầu
Hai câu đầu đoạn là nét tả khái quát. Tác giả nói về những đường Việt Bắc ra trận, những nẻo đường hành quân, những nẻo đường chiến dịch nhưng là để nói lên khí thế dũng mãnh của người ra trận :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
             Những nhịp điệu “đêm đêm”, những điệp thanh “rầm rập” cùng với biện pháp so sánh “như là đất rung” đã cho ta thấy mặt đất như đang chuyển động dưới bàn chân những người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa CM. Đây là hình ảnh hào hùng, là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa bốn nghìn năm của dân tộc mà không thế lực nào có thể ngăn cản được.
Hai dòng 3-4
     Chưa hết, hình ảnh người lính ra trận hiện lên vừa hiện thực, vừa hào hùng và lãng mạn:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hiện thực ở chi tiết những đoàn quân nối tiếp nhau, ở những chiếc mũ nan giản dị. Hào hùng ở sự trùng điệp được nhân lên “điệp điệp trùng trùng”thật đông đảo, người người lớp lớp như sóng cuộn và lãng mạn ở hình ảnh “ánh sao đầu súng”, ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép, ánh sao của bầu trời VB, ánh sao của lý tưởng chiến đấu. Đây là tứ thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp anh bộ đội cụ Hồ.
Hai dòng 5-6
Trên những con đường VB trong đêm ra quân, ta không chỉ bắt gặp hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ bước đi hùng tráng trong đêm mà còn có cả hình ảnh những đoàn dân công ra trận đi tải lương, tải đạn phục vụ tiền tuyến:
                                    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
          Trong chiến tranh, nhân dân ta lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Bởi thế nên giữa đêm VB ra quân, cạnh những đoàn quân đi, ta còn thấy hình ảnh "dân công đỏ đuốc từng đoàn". Họ cũng như những người lính, hăng hái ra trận, hăng hái lên đường. Giữa cái cảnh hào hùng ấy, hình ảnh "muôn tàn lửa bay "gợi cho ta một vẻ đẹp rất lãng mạn. Những tàn lửa bay ra từ những bó đuốc rơi xuống mặt đất thực sự đã làm cho con đường ra trận thêm lung linh, huyền ảo. Ta có cảm giác con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực rỡ.
           Không chỉ sử dụng các hình ảnh, các từ láy, cách nói cường điệu trong câu thơ "bước chân nát đá” đã diễn tả sức mạnh của lòng quyết tâm từ hàng vạn con người. Họ sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi đến chiến thắng. Đây là một sự sáng tạo của Tố Hữu khi ông đã lấy ý tưởng từ câu ca dao: 
                                                “Trông cho chân cứng đá mềm
                                                  Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng ".
          Điều đó đã tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ nhằm ca ngợi sức mạnh của con người Việt Nam chiến đấu và chiến thắng. Ý thơ mang tầm vóc sử thi.
Hai dòng 7-8
           Hai câu thơ cuối của đoạn thơ là hình ảnh của những đoàn xe cơ giới, xe tăng, xe tải chở lính, chở lương thực vũ khí ào ào ra trận:
                                   "Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
                                    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên"
            Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn. Bỏ đằng sau cái nghĩa thực của cuộc hành quân xuyên rừng vượt núi, xuyên qua đêm tối sương dày thăm thẳm thì nghĩa bóng về hình ảnh ngày mai lại thật lạc quan phơi phới "đèn pha bật sáng như ngày mai lên". Nghệ thuật so sánh lại được nhà thơ sử dụng thật thành công. Hình ảnh đèn pha bật sáng được ví như mặt trời mọc "như ngày mai lên ". Như vậy, ngày mai đến từ trong đêm thăm thẳm nhờ có đèn pha bật sáng, nhờ có sức mạnh của con người cộng với lý tương cao đẹp : chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước. Câu thơ vừa thể hiện được cái dư vị của cảnh hành quân hoành tráng, đầy hào khí chiến đấu, chiến thắng, vừa thể hiện một niềm tin, lạc quan phơi phới: tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bốn dòng cuối
        Và niềm tin ấy đã được khẳng định. Những câu còn lại là niềm vui của tác giả, của nhân dân Việt Bắc trước tin thắng trận trên khắp mọi miền đất nước dồn dập bay về:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Hàng loạt các địa danh được liệt kê: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê,... trước đó là: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng,… mỗi địa danh ghi dấu một chiến công của dân tộc. Cách gọi tên các địa danh đã diễn tả được tình yêu núi sông và niềm tự hào trào dâng trong lòng tác giả khi nghĩ về những chiến công oanh liệt trên khắp mọi miền đất nước. Cùng với những địa danh ấy là điệp từ “vui” được lặp nhiều lần kèm với các giới từ “tin vui chiến thắng…vui về…vui từ…vui lên…” gợi tả chiến thắng giòn giã, dồn dập, như tiếng reo mừng cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam. 
Nhận xét
         Như vậy, với bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, chỉ với 12 dòng lục bát, Tố Hữu đã dựng nên bức tranh VB ra trận thật đẹp. Bức tranh không chỉ  làm sống dậy những tháng năm hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên căn cứ địa thần thánh, mà còn mang đến cho ta niềm tin yêu quê hương CM anh hùng. Có thể gọi đây là bức tranh thành công về Việt Bắc ra quân. Đoạn thơ 12 câu diễn tả khí thế hào hùng sục sôi của Việt Bắc kháng chiến. Qua đó, đoạn thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dan tộc. Đoạn thơ có âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại, là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Kết bài
      Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
           Về hình thức, bài thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng. Tất cả có sức tác động sâu xa, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, bài thơ vẫn rung cảm lòng người.